03/09/2016
08:49
.
Trung Hoa thời Xuân
Thu – Chiến Quốc
Khi đọc những câu hỏi
“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể
đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng
hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt
nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự
như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng
Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.
Tượng
Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.
Họ
đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên
ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy
năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không
thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà
ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực
mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô
hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời
đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không?
Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?
Là
người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi
thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ
Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền
văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và
giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta
quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa
Bách Việt là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử
chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số
hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ
còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả
uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều,
kể cả còn đang tranh cãi.
Bách
Việt là ai và ở đâu?
Vào
thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046
TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu),
cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc
người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu
trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt,
dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông),
ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.
Trong
Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có
phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt
của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải,
Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này
vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này
cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay),
Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi
tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ
gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều
bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).
Bởi
vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt
xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời
nhà Tần.
Trong
lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử),
rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi
cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời
nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là
Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越,
từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách
Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc
Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân,
Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu
khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán
Hóa Bách Việt – Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi
Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có
nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong
sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời
Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ
là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi
nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước
Việt 越
国
thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không
tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu
trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 – 1083 TCN). Nước
Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích
đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở
Cối Kê 會稽
(Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 – 464 TCN) thì
bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc
chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày
nay), Đông giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy
ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều
vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt,
đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện
này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋
do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà
khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric
Henry4.
Đến
đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện
còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con
cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ
thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận
thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ
(Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động
Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng
Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên
Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên
di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly
Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua
về họ Cao Dương(Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam
thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu
đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man
(Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi
dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần
đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam
Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây
nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức
vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ
tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống
người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa)
đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ
nhất
Trung Hoa thời Xân Thu
– Chiến Quốc
Sự
Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về
sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt
là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở
là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác
chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không
tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết
lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt
phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa
hóa Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.
Các
nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt
sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng
người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu
nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ
yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt
bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh – tức Bắc
Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin
Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt
nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết;
chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong
con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều
này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt
xưa. (Xem bản đồ).
Hán
hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho
đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất
Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải
đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng
Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây
Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn
thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…
Vùng
Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người
Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ
chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà
Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định
xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân
Nam là người Hán.
Vùng
Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần – Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì
khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì
Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang
(nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt
hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách
“Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến
Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu,
không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền
nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì
có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt
Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm
trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt
là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.
Luận
theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác
nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại
với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ
Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt
của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng
quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng
thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử
chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra
thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của
vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây
Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết
trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam
giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy
nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai
Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương
thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây
thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai
Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng
nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền
ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của
tộc dân Đại Y17.
Lúc
này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ
lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một
nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm
vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị
vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử
tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là
An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.
Theo
quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt
Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về
nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán
đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.
Sách
cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “…
Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng.
Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam
Việt chí” chép20“Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là
Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân
tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai
trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc
Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một,
chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21.
Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là
dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên
tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của
Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội
chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng
là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.
Tần
diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế
Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn
chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh
chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh
đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần
cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái
Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba
vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn
đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam
Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với
nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ
Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh
Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt,
còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn
giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở
thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một
trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.
Vì
sao Đại Việt không bị Hán hóa?
Đồng
hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 – Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu
hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 – Đồng hóa cưỡng chế: sự
cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán
của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực
hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng
hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng
không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
§
Việt
Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại
sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị
đồng hóa hoàn toàn.
§
Việt
Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như
vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
§
Tại
vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng
nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm
đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu
người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực
ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!
Cũng
có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít
nhiều có lý, ví như:
§
Người
Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh
hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
§
Người
Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái
lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng
lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng
về phía Nam thì rõ.
Nhưng
đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được.
Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn,
rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời
không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng
hòa gồm:
§
Đồng
hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục
hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế
bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
§
Đồng
hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
§
Đồng
hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về
vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt,
xin dành cho bài sau).
Sự
đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1.
Nếu
một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc
khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
2.
Đồng
hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân
tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu
trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc
Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.
3.
Khi
một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc
đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn
lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện
nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt
bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn
sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ
là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn
ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng
chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có
sức sống mãnh liệt.
Tinh
hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền
văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau
ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải
mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn
giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ
chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ
chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn
tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để
thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến
mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng
không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn
Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết,
họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao,
sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải
lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân
Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không
có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho
người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần
nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước
Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…
Than
ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới
có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ
dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.
Người
viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những
thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết
bằng văn ngôn trên đây.
———————-
CHÚ DẪN
1.
为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị
Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt
Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người
Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?” http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html
2.
Có
học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc
người vác rìu đi (chạy) săn và tộc người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ
thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải
đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵
âm đọc giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ
Vu 于,
người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ
triện 篆
là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên
thành 雩.
Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ
隶,
chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình
chữ vũ 雨
đặt trên chữ Vu亏.
3.
“路史” 罗泌
(1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,
且瓯,
西瓯,
供人,
目深,
摧夫,
禽人,
苍梧, 越区, 桂国, 损子,
产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳),
是谓百越。
4.
http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html
The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina
5.
史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)
6.
屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao
Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
7.
《史记.楚世家》记载:
“封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥-
Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch
(~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man
là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt
thời nhà Thương.
8.
Jerry
Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published
by: Taylor & Francis, Ltd.
9.
五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua
biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao
(Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞
(Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).
10.
Chữ
Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ 雒,骆
thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo,
Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc
là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt
là tộc người có nền văn minh lúa nước.
11.
《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho
quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu
là Dịch Hu Tống”.
12.
《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn
Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng
vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa
thân (ý nói đóng khố cởi trần).
13.
《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。” Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị
thiên:” Những thứ hoàn mỹ là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn
(Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
14.
常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển
3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ,
Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba,
nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây
có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
15.
“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc
Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là
Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục
Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì
bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai
Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ
Xuyên.
16.
叶榆水
17.
岱依人
18.
《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược:
“thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được
các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần
hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương
Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương
Tử tên là Phán đánh đuổi, thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu
là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.
19.
《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo
“Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai
thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên
gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau
Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc
Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20.
《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư”
dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là
Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương
đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21.
So
sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy
Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn
thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo
sách cổ nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử
lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả
Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ
雒
(Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên
nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày
xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!
22.
Các
sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam
Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 thì cũng soạn
vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại
Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览.
Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại
từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại
trừ có những ý kiến khác.
23.
《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy
Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù
tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.
24.
《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm,
quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết
ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông
là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư
dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy
sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến
đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là
sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là
còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở
sách này-TGN).
25.
Người
viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng
Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết
sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên
vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt
lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật
trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều
so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.
26.
Lữ
Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán, thua
trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ
và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27.
Nguyễn
Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? – http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.
28.
Đại
Việt sử ký toàn thư – NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.
------------------------------
XEM
THÊM :
Nguyễn Hải Hoành - Nghiên
Cứu Quốc Tế
Posted
on 07/09/2015
No comments:
Post a Comment