Nguồn
gốc từ vựng Hán Việt : trao đổi về văn hóa, dân tộc Việt Nam với NNC Nguyễn Hải
Hoành
NNC Nguyễn Hải Hoành vừa công bố bài viết “Vì sao tiếng Việt không cùng
nguồn gốc với tiếng Hán?”. Bên cạnh những tán đồng với tác giả về quan hệ cội
nguồn của tiếng Việt, mối liên kết của người Việt (Kinh) với văn hóa Bách Việt.
Chúng tôi nhận thấy cần trao đổi lại với tác giả về vấn đề từ vựng Hán Việt,
cũng như các mệnh đề liên quan mà ông đề cập.
Sau phần lược sử nghiên cứu về Quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ người Việt
(Kinh), tác giả đưa ra mệnh đề: “Sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt
đã giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nói tiếng
Hán, đồng thời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng phát triển hầu như vô
hạn. Đây là một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ tiên ta”. Dẫn lời
Giáo sư Trần Trí Dõi, tác giả đi đến kết luận: “Như vậy thì cội nguồn văn hóa
Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với văn hóa Hán”. Thậm chí ông còn đi
xa hơn khi mở vấn đề đến lịch sử hình thành dân tộc lên tới 20 ngàn năm.
Nhằm giúp vấn đề rõ ràng, gợi mở và cận khoa học hơn, chúng tôi trao đổi,
phản biện với tác giả về những mệnh đề nói trên.
CỘI NGUỒN TỪ VỰNG HÁN
VIỆT: KHI TƯỞNG TƯỢNG TRÀN ĐẦY
Trong bài viết, tác giả Nguyễn Hải Hoành đưa ra nhận định: “Từ vựng Hán
Việt là loại từ vựng do tổ tiên ta sáng tạo ra trong quá trình tiếp nhận chữ
Hán” hay: “tổ tiên ta đã sáng tạo ra cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt mà
không đọc theo âm Hán, tức cách phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt”. Về vấn đề
này, chúng tôi phản biện lại tác giả Nguyễn Hải Hoành như sau.
Từ vựng Hán Việt không phải là sáng tạo của tổ tiên ta. Từ vựng ấy được
hình thành bởi những người Hán tại Giao Châu – Annam (tức Việt Nam thời Hán Đường).
Tác giả Nguyễn Hải Hoành không đưa ra bất cứ một bằng chứng lịch sử nào chứng
minh cho nhận định của mình. Nhưng nhiều nhà khoa học lịch sử và ngôn ngữ đã
công nhận rằng tại Miền Bắc Việt Nam đã từng có cộng đồng Hán ngữ đó đã từng rất
phồn vinh (1).
Động lực nào để người Hán di cư tới Giao Châu - Annam? Ngoài những lần
Trung Quốc có biến loạn thì lợi ích kinh tế mới là cốt lõi. Khu vực vịnh Bắc Bộ
nằm trên tuyến đường thương mại biển quan trọng kết nối Đông Nam Á (ngày nay) với
các các biển phía Nam Trung Hoa. Khu vực thượng Châu thổ sông Hồng kết nối cảng
biển với phần phía bắc của Đông Nam Á lục địa, lên tới tận Vân Nam. Từ đây người
Hán có thể xuất khẩu được lụa, gốm… nhập khẩu về san hô, chu sa, ngà voi, trầm
hương, vàng, nô lệ ... Thứ 2, Châu thổ sông Hồng đã có đủ đất đai cho các hoạt
động định cư, canh tác lúa nước. Thứ 3 giao thông tương đối thuận lợi. Litana
trong “Vịnh Bắc Bộ cái nhìn xuyên lịch sử” cho biết: Từ Hàm Dương, Trường An
kinh đô Tần – Hán – Đường thông qua Tần Lĩnh đạo, Hồ Nam (trong đó có sông
Tương), Linh Cừ, cư dân Trung Nguyên được kết nối trực tiếp với vịnh Bắc Bộ, biến
nơi đây thành khu vực kinh tế quan trọng (2).
Hấp lực như vậy đủ khiến cho Hán – Đường nỗ lực giữ quyền cai trị của họ
tại Châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả, lập thành quận huyện xây dựng thương
cảng và cả “giáo hóa” dân chúng. Cố GS Nguyễn Tài Cẩn trong “Chương thứ II -
Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt” có trình bày cặn kẽ hoàn cảnh
lịch sử đặt nền móng cho cách đọc Hán Việt. Ông cho biết có 3 yếu tố tác động
trực tiếp tới việc hình thành từ vựng – cách đọc Hán Việt bao gồm: a) Di dân
người Hán, (dân di cư tự do và được triều đình khuyến khích, tội đồ, quan lại
và gia đình họ, binh lính số lượng hàng vạn…). b). Các yếu tố chính trị - số lượng
quan lại ngày càng phình lớn bởi sự quan liêu hóa, …). c). Công cuộc phổ quát
văn hóa Hán tại Giao Châu - An Nam (Việt Nam thuộc thời Hán Đường): Tích Quang,
Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp, đặc biệt là triều Đường đã mở trường dạy chữ Hán ở Giao
Châu (3). GS Trần Quốc Bảo trong chuyên luận “Tầm quan trọng của di dân Trung
Nguyên trong thời đại nhà Đường đối với sự phát triển của Annam” cũng có những
nhận định tương đồng với Giáo sư Nguyễn Tài Cần về dòng di cư của người ngôn ngữ
và văn hóa Hán vào khu vực nay là miền bắc Việt Nam (4).
Những hoạt động bền bỉ kéo dài hàng ngàn năm như vậy đã dẫn tới sự hình
thành và phát triển của những khu định cư của người Hán tại Giao Châu – Annam.
Ngôn ngữ Hán ở Annam cùng với Tương ngữ, Việt ngữ (Quảng Đông…) phát triển từ
Hán ngữ thượng cổ (Old Chinese) lên Hán ngữ trung cổ (Middle Chinese). Cộng đồng
nói phương ngữ Hán Annam trung cổ (Annamese Middle Chinese) ấy tồn tại và khẳng
định được vị thế của mình trong buổi đầu thiên niên kỷ II tại Đại Việt.
Điều này được chứng minh bởi sự trỗi dậy của họ Khúc ở Hồng Châu (có gốc
Khúc Ấp đất Tấn), Trần Lãm, sứ quân giữ Bố Hải Khẩu đến từ Quảng Đông, từ nhiều
sứ quân ở Châu thổ Sông Hồng như trường hợp ba anh em họ Nguyễn. Chúng tôi tán
đồng với quan điểm của John Phan rằng từ vựng Hán Việt ngày nay có gốc từ
phương ngữ Hán Trung Cổ tại Annam. Từ thiên niên kỷ thứ II, cộng đồng nói ngôn
ngữ ấy dần chuyển ngữ sang ngôn ngữ proto Việt Mường (Language shift), đóng góp
toàn bộ quỹ từ vựng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình (5). Trải qua hàng thế kỷ, tại Châu
thổ sông Hồng một phương ngữ mới ra đời. Chúng tôi cho rằng, nhận định của tác
giả Nguyễn Hải Hoành về nguồn gốc cách đọc Hán Việt chỉ chính xác với một số
phương ngữ Mường, không chính xác với ngôn ngữ người Kinh. Người Việt không có
sáng kiến nào về việc đọc chữ Hán theo tiếng Việt cả. Sở dĩ phát âm Hán Việt
khác với tiếng Hán hiện đại là do môi trường phát triển ngôn ngữ ở người Kinh
mang đặc thù là sự tương tác, hòa nhuyễn giữa hai khối ngôn ngữ proto Việt Mường
và Hán Annam Trung Cổ.
PHỤC NGUYÊN TỪ VỰNG
HÁN VIỆT, SO SÁNH VỚI CÁC PHƯƠNG NGỮ LIÊN QUAN: MỘT THAO TÁC KỸ THUẬT CẦN THIẾT
Tác giả Nguyễn Hải Hoành có lẽ đã để xúc cảm dẫn dắt ngòi bút của mình.
Ông viết bằng trực giác mách bảo, bằng việc ông cảm thấy thế là đúng, là logic,
hoặc là hợp xu thế chăng? Ông đưa ra mệnh đề: “Tóm lại sáng kiến phiên âm chữ
Hán thành từ Hán-Việt đã giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn
toàn không nói tiếng Hán, đồng thời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng
phát triển hầu như vô hạn. Đây là một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ
tiên ta”.
Chứng minh cho mệnh đề này, ông có những lập luận, so sánh mà chúng tôi
thấy rằng thiếu chính xác về phát âm của từ vựng Hán Việt. Trích: “… “文 tiếng Hán đọc “uấn”, ta đọc tiếng Việt là “văn” hay “… 学习 tiếng Quảng Đông đọc “hoọc chập”, từ Hán-Việt là “học
tập”, tuy rằng tiếng Bắc Kinh đọc “xuế xí”. Chúng tôi, phản biện tác giả Nguyễn
Hải Hoành ở 2 điểm sau: 1/không so sánh tiếng Việt hiện đại với tiếng Bắc Kinh;
2/cần phục nguyên âm và đối sánh với các phương ngữ liên quan.
Trước hết, tiếng Bắc Kinh, thuộc về Bắc phương Quan thoại là sự kết hợp
giữa ngôn ngữ Hán với ngôn ngữ của các tộc người Khiết Đan, Nữ Chân (Kim), Mông
Cổ (Nguyên), Mãn Châu. Hậu quả là tiếng Bắc Kinh (tuy được dùng là tiếng phổ
thông Trung Quốc) nhưng đã biến đổi rất nhiều (language change) và không thuộc
nhánh phát âm Hán Việt.
Thứ 2 về phục nguyên âm (6). Chúng tôi tiến hành phục nguyên câu mở đầu
bài “Nam Quốc Sơn Hà” về Hán âm Trung Cổ (John Phan và cố Gs Nguyễn Tài Cẩn nhận
định thời kỳ nhà Đường là cốt lõi trong việc hình thành từ vựng Hán Việt). Đồng
thời, so sánh kết quả phục âm với Tương ngữ, Việt ngữ (những phương ngữ có cùng
gốc phát triển của từ vựng cách đọc Hán Việt) và giọng Hà Nội. Công cụ phục
nguyên mà chúng tôi dùng là từ William H. Baxter và Laurent Sagart và dữ liệu
phương ngữ Trung Hoa.
Xem H2. Bảng : so sánh âm Hán Trung Cổ với Tương ngữ (Hồ Nam), Việt ngữ tại
Quảng Châu (Quảng Đông) và giọng Hà Nội.
Đây mới chỉ là thông tin đầu tiên khi tìm hiểu về cách phát âm Hán Việt.
Chúng tôi có chỉ đưa ra nhận xét sơ khởi: cách đọc Hán Việt có nhiều điểm tương
đồng với Tương ngữ, Việt ngữ và có sự kế thừa nhất định với âm Hán trung cổ. Để
rõ hơn sự tương đồng và khác biệt, chúng ta còn phải dựa vào những nguyên tắc về
cách hình thành, phát triển của thanh điệu, âm vực trong cách đọc Hán Việt và
các ngôn ngữ liên quan.
HÁN, VIỆT LÀ NHỮNG
NGÔN NGỮ ĐƠN ÂM: TÁC GIẢ QUÁ VỘI VÀNG
Tác giả Nguyễn Hải Hoành nhận định: "Do tiếng Hán và tiếng Việt đều
là ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic) nên việc phiên âm một đối một tương đối
thuận tiện". Tại mệnh đề này, chúng tôi phản biện tác giả ở cả 2 lập luận:
1/sự đơn âm tiết của tiếng Hán và tiếng Việt. 2/phiên âm một đối một.
Chúng tôi tái khẳng định lại các nghiên cứu của William H. Baxter,
Laurent Sagart, Vương Lực cùng nhiều nhà ngôn ngữ học khác về sự hình thành và
phát triển của ngôn ngữ Hán. Theo đó tiếng Hán Thượng Cổ (từ nhà Thương đến Nam
Bắc triều) là ngôn ngữ Đa Âm; nửa sau thời kỳ Nam Bắc Triều (TK thứ V trở đi)
ngôn ngữ Hán bước sang giai đoạn đơn âm. Dưới đây là phần phục nguyên âm Hán
Thượng Cổ và Hán Trung Cổ của câu thơ đầu bài Nam Quốc Sơn Hà. Công cụ chúng
tôi sử dụng để phục nguyên âm vẫn là từ William H. Baxter và Laurent Sagart.
Xem H3: Phục nguyên âm Nam Quốc Sơn Hà về Thượng cổ Hán âm và Trung cổ
Hán âm.
Về tiếng Việt, với data từ sealang, chúng tôi tiến hành phục nguyên âm số
đếm từ 1 tới 5 của ngôn ngữ Proto Vietic, ngõ hầu cung cấp thông tin tốt nhất đến
độc giả.
Xem H4. Phục nguyên số đếm từ 1 tới 5 âm proto Vietic
Qua bảng phục nguyên âm, ta thấy proto Vietic là ngôn ngữ Đa Âm. Với người
Kinh (Việt) chúng ta có một số ví dụ như sau: “Trời” từng được phát âm: blời,
plàn, phục nguyên proto Vietic là *b-ləːj hậu quả là Trần Phu trong Annam Tức Sự đã phải ký
âm là bột mạt (勃末). Trăng từng được phát âm blăng, blang, phục nguyên
về proto Vietic là *b-laŋ hoặc *p-laːŋʔ, Trần Phu
ký âm thành bột lăng (勃義). Núi, tra dữ liệu về proto Vietic trên sealang với
từ khóa “rock” chúng tôi có được âm kʰoːlʔ, khả năng vì âm này mà Trần Phu đã ký âm thành can
ôi (乾隈)…. (7) Ta tiếp tục gặp dấu vết đa âm tiết qua thơ
Nôm Nguyễn Trãi. Chúng tôi lấy một vài ví dụ sau: “Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn”
(Thủ vĩ ngâm). Ngựa âm proto Vietic là /*m-ŋəːʔ / đã biến thành "bà ngựa"
(.8.). Trong bài Ngôn chí 20, câu mở đầu là: "Dấu người đi là đá mòn"
(9). Thực tế "đá" trong âm proto Vietic là /*l-taːʔ/ đã biến
thành "là đá", (dấu gạch ngang trong phiên IPA tượng trưng cho nguyên
âm bất kỳ (có thể theo giọng địa phương). Người nói tiếng proto Vietic gọi
"ngựa" là "mơ ngơ", gọi "đá" là "la
đa". Nguyễn Trãi vào thế kỷ XV đọc là "bà ngựa" và "là
đá".
Dấu tích Đa Âm trong tiếng Việt vẫn còn tới ít nhất là thế kỷ XVII khi mà
cuốn từ điển Việt Bồ La ra đời. Như vậy việc ký âm tiếng thuần Việt bằng tiến
Hán chưa hẳn là “một đối một” như tác giả Nguyễn Hải Hoành nhận định.
Vậy còn ký âm bằng chữ Nôm? Do nhiều từ vựng của người Việt Mường không
thể dùng chữ Hán để ký âm, điều này nảy sinh việc tầng lớp tinh hoa của Đại Việt
phải sáng tạo ra chữ Nôm. Trên Từ điển Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi của Trần Trọng
Dương chúng ta sẽ thấy những ví dụ như: chữ trống được ghép từ Cổ Lộng (cổ 古+ lộng 弄), trăng được ghép từ nguyệt và lăng (𦝄), …Hệ quả là chữ Nôm còn khó học hơn cả Hán tự.
Như vậy, tác giả Nguyễn Hải Hoành đưa ra kết luận khi chính ông chưa đi đến
nguồn gốc của vấn đề. Thêm một lần nữa, ông để xúc cảm dẫn lối cho những suy luận
của mình. Điều đó làm giảm đi tính chính xác và khoa học của mệnh đề tác giả
đưa ra.
NGƯỜI KINH NÓI NGÔN
NGỮ GÌ? VIẾT RIÊNG ĐỂ TRÁNH NGỘ NHẬN
Do trong bài viết, tác giả đề cập tới việc Việt hoàn toàn không nói tiếng
Hán. Trích “… Để vượt qua khó khăn trên, tổ tiên ta đã sáng tạo ra cách đọc chữ
Hán theo âm tiếng Việt mà không đọc theo âm Hán, tức cách phiên âm chữ Hán
thành từ Hán-Việt” và “Tóm lại sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt đã
giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nói tiếng Hán”.
Có thể tác giả không có ý phủ định việc người Việt đã từng nói – nói thành thạo
Hán ngữ, nhưng để tránh những ngộ nhận không đáng có, chúng tôi đề cập lại vấn
đề ngôn ngữ người Kinh (Việt).
Từ TK X đến ít nhất là đầu thế kỷ XV, tại những vùng đất mà triều đình
Thăng Long trực tiếp quản lý có ít nhất hai ngôn ngữ cùng song song tồn tại là
Hán và proto Việt Mường. Ngôn ngữ Hán tồn tại trong các cộng đồng gốc Đường và
được tiếp động lực từ những người nhập cư nói Ngô ngữ, Mân ngữ và Việt ngữ. Tất
cả hội tụ trong văn ngôn thời Lý Trần (ngôn ngữ của tầng lớp tinh hoa Đại Việt).
Trong khi đó cộng đồng Việt Mường sử dụng ngôn ngữ của chính họ. Bằng chứng
cho sự hiện diện của cộng đồng này là triều đình Đại Việt đã phải dịch Phật
Thuyết, hay vua Trần Nhân Tông làm thơ nôm Cư Trần Lạc Đạo Phú… Sự giao giữa
hai khối ngôn ngữ ấy đã trở thành ngôn ngữ Việt Mường Siêu Hán Hóa (khái niệm
John Phan dùng chỉ việc ngôn ngữ Việt Mường biến đổi sâu sắc và toàn diện bởi
ngôn ngữ Hán Annam). Ngôn ngữ mới này, nhờ sự hỗ trợ của triều đình mà ngày
càng trở nên uy tín tại Đại Việt.
Nhưng có dữ liệu nào ủng hộ cho việc có ngôn ngữ Hán tại Đại Việt thời Lý
– Trần. Toàn thư chép có chép về việc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đến Sứ Quán
gặp sứ Nguyên là Sài Xuân (10). Ở đây, ta thấy Hưng Đạo Vương đã trực tiếp nói
chuyện với sứ Nguyên mà không cần phiên dịch. Hán văn Lý Trần – một di sản văn
hóa đồ sộ cho thấy, tầng lớp tinh hoa Đại Việt trao đổi với nhau, làm thơ tặng
nhau bằng, thực hành niềm tin tôn giáo bằng Hán ngữ. Kể cả tiếng Việt Mường
siêu Hán Hóa mà John Phan đề cập tới cũng chứa đựng từ 70 – 75% từ vựng Hán.
Bài thơ Việt Giới, của Trần Minh Tông ngõ hầu đưa chúng ta về lại bối cảnh
và sự tương đồng ngôn ngữ giữa Đại Việt và Hán ngữ phương quan (chữ dùng của Trần
Quang Đức trong Ngàn năm áo mũ). Trích: “ngôn ngữ vô đa biệt/Y quan bất khả đồng”,
tạm dịch: Ngôn ngữ chẳng khác nhau nhiều/Áo mũ không được giống nhau (11). Như
vậy có thể nói rằng ít nhất đến TK thứ 13, 14 Đại Việt vẫn có cộng đồng mạnh
nói tiếng Hán, tự hào với tiếng Hán. Ít nhất đến khoảng thời gian này, nhiều cư
dân Đại Việt vẫn thông ngôn trực tiếp với người Trung Quốc.
CỘI NGUỒN VĂN HÓA:
KHI TÁC GIẢ CHỈ NHÌN "THUẦN VIỆT"
Trích: “Việc tiếng Việt, tiếng Hán thuộc hai ngữ hệ khác nhau chứng tỏ
ngôn ngữ Việt không cùng nguồn gốc với ngôn ngữ Hán. Như vậy thì cội nguồn văn
hóa Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với văn hóa Hán”. Nhưng điều này có
hoàn toàn chính xác không? Chúng tôi cho rằng đưa ra mệnh đề như vậy tác giả (của
mệnh đề này) chưa đi đến cội nguồn của văn hóa người Kinh.
Nguồn gốc tiếng Việt và nguồn gốc Văn hóa Việt Nam là không trùng khít.
Nguồn gốc ngôn ngữ Việt và nguồn gốc văn hóa người Kinh cũng không trùng khít.
Từ những người nói ngôn ngữ proto Vietic đến Việt Mường đến tiếng Kinh đến Việt
Nam là hành trình ngôn ngữ 4000 năm, với nhiều giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn
đó, người nói ngôn ngữ Vietic đã tiếp nhận các luồng văn hóa và cả di truyền tới
từ những người thuộc các ngữ hệ khác. Những người Kinh đầu tiên cảm thấy mình gần
Hoa Hạ, có gốc cội Hán Đường. Họ nhìn cư dân bản xứ ở vùng rìa chỉ là Liêu Di,
là Mán Mọi, “nô lệ miền núi”.
Từ Khúc Thừa Dụ, đến những sứ quân gốc Hán tại khu vực sông Hồng và chưa
hết! Chúng ta có những tư liệu cho thấy nhà Lý là một gia tộc tới từ đất Mân
(12), nhà Trần đến từ đất Mân (13) (lưu ý rằng đến thế kỷ thứ 9, 10, người Mân
đã nói một phương ngữ của tiếng Hán gọi là Mân ngữ). Những điều này đã tạo cho
thành Thăng Long một nền văn hóa khác biệt với những cư dân vùng rìa. Người
Thăng Long coi những cư dân ấy là Man, là Liêu Di. Từ kinh thành họ đã phóng ra
hàng chục cuộc tấn công vào các thế lực bản địa khi họ “ương ngạnh không tuân
giáo hóa”.
Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói: “Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần
[...] Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật
mà theo hoàng hóa” (14). Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục cho rằng thật tệ khi
sinh ra ở cõi Man Di, tắm chung một dòng sông, chỉ có sinh ra ở Trung Quốc, lục
căn đầy đủ là quý giá nhất: “…ba là đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn
không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm [...] tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt
như ở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ
sáu căn, há chẳng quý lắm sao?” (15).
Phạm Sư Mạnh trong bài Kinh Lý Thao Giang Lộ đã phóng chiếu cách nhìn rất
đỗi Trung Hoa với vùng đất bên rìa Kinh Lộ. Trong Án Thao Giang Lộ, ông viết:
“Tục tạp Nhiễm Bàng kiêm Bặc Bắc/Địa liên Thiện Thiện dữ Vân Nam” (16). Nguyễn
Phi Khanh nhìn về Trường Châu thấy: “Tục tạp liêu di dân thái cổ” (17). Và khi
đi tuyên chiếu ở Trường châu thì ông đem “chiếu chỉ triều Đường”, “sắc lệnh nhà
Hán” (18) đến với dân Liêu Di ấy. Trong tờ chiếu đánh Ai Lao năm 1479, Vua Lê
Thành Tông xưng mình cai quản Trung châu (19); còn phía đối phương chỉ là man rợ,
chó má. Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam Trung Đại chúng ta còn bắt gặp rất
nhiều những diễn ngôn như vậy.
Trong ngàn năm qua, chúng ta dành tới 90% thời gian để theo đuổi nỗ lực
Vô tốn Trung Hoa (無遜中華 - không khác và không thua
kém Trung Hoa). Từ những cứ liệu trên, chúng tôi cho rằng với người Kinh thì từ
từ vựng, văn hóa, đến ý thức tự nhận chúng ta đã từng có điểm giao rất lớn với
nền Văn minh Trung Hoa (Việt Nam nằm trong Hán quyển). Cũng lưu ý cội nguồn văn
hóa Việt Nam được hình thành bởi 54 sắc tộc trên toàn quốc gia, không phải chỉ
dành riêng cho người Kinh.
DÂN TỘC 20 NGÀN NĂM
TUỔI: LẠI MỘT TƯỞNG TƯỢNG KHÔNG PHÙ HỢP
Nghiên cứu của Gs Trần Trí Dõi “Lịch sử ngôn ngữ người Việt: Góp phần tìm
hiểu văn hóa Việt Nam” đã gợi xúc cảm để tác giả Nguyễn Hải Hoành đi đến mệnh đề:
“Kết luận trên cho thấy dân tộc Việt được hình thành trên mảnh đất này từ khoảng
hơn 20 nghìn năm trước. Có thể là, theo thuyết “Đi khỏi châu Phi” (Out of
Africa), trước đó tổ tiên ta từ châu Phi di cư tới đây. Năm 1923, nhà khảo cổ
Madeleine Coloni phát hiện di cốt người Việt cùng nền văn hóa của họ trong hang
đá ở tỉnh Hòa Bình, các di vật này có niên đại 18.000 năm trước CN”.
Lại một lần nữa, tác giả đã để cảm tính của mình dẫn đi quá xa - xa quá
thành lạc. Chúng tôi không hiểu dựa trên cơ sở khoa học nào mà tác giả lại kết
nối từ văn hóa cuội ghè Hòa Bình đến tận người Việt hôm nay? Chúng tôi thẳng thắn
lưu ý rằng theo chuẩn thuật ngữ khoa học thì chỉ có một dân tộc Việt Nam được
hình thành từ 54 sắc tộc, trong đó người Kinh là sắc tộc chủ thể.
Về định nghĩa dân tộc, ngày 11 tháng 3 năm 1882, tại Đại học Sorbonne,
Ernest Renan đưa ra định nghĩa về “dân tộc” như sau: “Dân tộc là một tâm hồn, một
nguyên lý tinh thần. Có hai yếu tố, thực ra chỉ như một, tạo nên tâm hồn hoặc
nguyên lý tinh thần này. Một nằm trong quá khứ, một trong hiện tại. Cái này là
sự đồng sở đắc di sản ký ức phong phú; cái kia là sự thỏa thuận trong hiện tại,
là lòng mong muốn được chung sống, là ý chí biến giá trị kế thừa, giá trị mà mỗi
người đã tiếp nhận dưới hình thức trọn vẹn, trở nên bất diệt” (20).
Với người Kinh, chúng ta bắt gặp diễn ngôn người Kinh là Hoa Hạ, hãnh diện
làm người Trung Quốc (xem phần trên). Theo định nghĩa Ernest Renan thì ta sẽ gặp
ký ức và mong muốn làm bất diệt hóa ký ức di sản Trung Hoa ngay tại Đại Việt.
Như vậy giả thiết “dân tộc Việt được hình thành trên mảnh đất này từ khoảng 20
ngàn năm trước” liệu có phù hợp không?
Tiếp theo, chúng ta sẽ lưu ý tới những luồng di cư. Dữ liệu di truyền học
cho thấy 4000 năm trước người ngữ hệ Nam Á di cư vào khu vực châu thổ sông Hồng,
sáng tạo văn Phùng Nguyên. Người mang di truyền học ngữ hệ Tai Kadai sáng tạo
ra nền văn hóa Lạc (21). Dữ kiện lịch sử và Khảo cổ học cho thấy, người Hán di
cư tới châu thổ sông Hồng. Tất cả những dòng di cư ấy đều không phải là người của
văn hóa cuội ghè Hòa Bình.
Xin hỏi tác giả Nguyễn Hải Hoành: nếu văn hóa, lịch sử của người Kinh
(tác giả dùng khái niệm dân tộc Việt) (có thể…) được bắt nguồn từ người Hòa
Bình, vậy tiếng nói người Kinh được hình thành từ tiếng nói của người thuộc văn
hóa Hòa Bình ư? Người Hòa Bình nói ngôn ngữ gì vậy? Proto Vietic, hay là
Austroasiatic, hay sâu nữa là proto Austroasiatic đây? Chúng ta kế thừa và mong
muốn bất diệt hóa di sản ký ức nào từ người Hòa Bình đây?
Chúng tôi nhấn mạnh rằng chưa có bằng chứng khảo cổ học, nhân chủng học,
ngôn ngữ, văn hóa nào ủng hộ kết luận “dân tộc Việt được hình thành trên mảnh đất
này từ khoảng hơn 20 nghìn năm trước”. Chúng ta chỉ có những bằng chứng khẳng định
người Hòa Bình là những người bản địa đầu tiên ở khu vực nay là Đông Nam Á và cả
nam Trung Hoa. Hậu nhân của họ vẫn còn săn bắn hái lượm trong các khu rừng rậm
của Phillipine, Malaisia, Thái Lan ngày nay.
KẾT LUẬN
Chúng tôi thiết nghĩ bài viết “Vì sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với
tiếng Hán?” của tác giả Nguyễn Hải Hoành cần bổ sung rất nhiều cứ liệu về ngôn
ngữ (trong đó có phục nguyên âm, âm vị), lịch sử, văn hóa, khảo cổ. Tác giả
cũng cần cẩn trọng hơn trong việc đề cập tới các vấn đề dân tộc, văn hóa, sử dụng
dữ kiện. Sự cẩn trọng và thanh thản khi đối diện các vấn đề lịch sử, dữ kiện lịch
sử là cần thiết cho hành trình tiệp cận khoa học lịch sử mà cụ thể là lịch sử
hình thành người Kinh. Không ai có thể tự biện rằng: “Mọi nghiên cứu về thời cổ
đều chỉ là “thầy bói sờ voi”, tất cả đều chỉ dựa trên suy đoán, ai suy luận có
logic thì dễ được người đọc tin là đúng. Không ai có quyền chê người khác là
sai”.
---------------------------------------------
Cổ sử từ nguyên trân trọng cảm ơn NNC Lê Tư đã dành thời gian trao đổi, đồng
thời cung cấp một số tài liệu cần thiết cho quá trình xây dựng bài viết.
Do kiến văn hạn hẹp, nên bài viết có thể còn sơ sót, chúng tôi mong độc
giả tận tình hỗ trợ.
Tác giả: Sông Hàn và nhóm Cổ Sử Từ Nguyên
---------------------------------------------------
Chú thích
1. Xem thêm John Phan: Lacquered Words: the Evolution of Vietnamese under
Sinitic Influences from the 1st Century BCE to the 17th Century CE; Chapter 1:
The Chinese Language Family and Sino-Vietnamese.
2. Nguyên văn: The power base of the earliest Chinese dynasties, the Qin
and Han, was western China, with the Gulf of Tongking its most convenient
commercial outlet to the South Seas. Thanks to Qin Shihuangdi, these dynasties
and their people enjoyed an almost direct transport link between the capital at
Changan to the Tongking Gulf: over the Qin Mountains and the central Han plain,
across Dongting Lake and the Xiang River in Hunan, and then down the Ling
Canal. This system of waterways operated as a major corridor bringing travelers
and settlers from central China to the gulf region. It is no accident that the
majority of Han-era tombs in modern Guangxi that contain precious overseas
grave goods are located along this corridor”. Trích Nola Cooke, Li Tana, and
James A. Anderson; The Tongking Gulf Through History, tr 7.
Sông Hàn dịch Việt ngữ: “Cơ sở quyền lực của Tần, Hán - các triều đại đầu
tiên của Trung Quốc, là ở phía tây (Hàm Dương, Trường An). Vịnh Bắc Bộ là cửa
ngõ thương mại thuận tiện kết nối với vùng biển phía Nam. Nhờ Tần Thủy Hoàng đế,
các triều đại và người dân của họ đã có được liên kết gần như trực tiếp giữa
Trường An với vịnh Bắc Bộ. Đi qua đường Tần Lĩnh, cư dân Trung Nguyên có thể đến
Động Đình Hồ và rồi xuống sông Tương ở Hồ Nam đến Linh Cừ (tên con kênh được Tần
Thủy Hoàng lệnh xây dựng vào năm 214 TCN). Tuyến đường này như một hành lang
đưa người từ trung tâm Trung Quốc đến khu vực vịnh Bắc Bộ”.
3. Xem thêm Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc
Hán Việt, NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội, tr 30 – 42.
4. Xem thêm: Trần Quốc Bảo (Viện nghiên cứu Việt Nam, Đại học Sư phạm Quảng
Tây): Tầm quan trọng của di dân Trung Nguyên trong thời đại nhà Đường đối với sự
phát triển của Annam. Nguyên văn title: 唐代中原移民对安南地区发展的意义, bài đăng tải trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử Trung
Quốc.
5. Nguyên văn: Here I propose that Late Sino–Vietnamese resulted from a
language shift, in which Annamese Middle Chinese speakers switched linguistic
allegiance from their own language to Proto-Viet–Muong. This process
effectively “dragged” large numbers of words (as well as some linguistic
features) from their native language into the language they adopted, thereby
transforming it.
Dịch Việt ngữ: “Ở đây, tôi đề xuất ngôn ngữ Hậu Hán–Việt là kết quả quá
trình chuyển đổi, trong đó những người có nói tiếng Hán Annam Trung Cổ đã chuyển
đổi ngôn ngữ của mình sang proto Việt Mường. Quá trình này đã “kéo” một cách hiệu
quả một số lượng lớn từ vựng (cũng như một số đặc điểm ngôn ngữ) từ ngôn ngữ mẹ
đẻ là tiếng Hán Annam Trung Cổ sang ngôn ngữ mà họ sử dụng (proto Việt Mường),
từ đó biến đổi nó”.
Xem thêm: John Phan: Re-Imagining “Annam”: A New Analysis of Sino–Viet–
Muong Linguistic Contact (Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010),
tr 14.
6. Xem thêm: nguyên văn tiếng Anh về Từ Nguyên học (được chúng tôi lấy từ
Cornell University): “Etymology: the history of a linguistic form (such as a
word) shown by tracing its development since its earliest recorded occurrence
in the language where it is found, by tracing its transmission from one
language to another, by analyzing it into its component parts, by identifying
its cognates in other languages, or by tracing it and its cognates to a common
ancestral form in an ancestral language”.
NNC Lê Tư dịch Việt ngữ như sau: “Từ Nguyên học là môn học về lịch sử của
một hình thức ngôn ngữ (ví dụ như một từ) được trình bày bằng cách:
- Truy nguyên sự phát triển của nó từ thời điểm xuất hiện sớm nhất còn
ghi nhận được trong ngôn ngữ của chính nó.
- Truy vết sự lan truyền của nó từ ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác.
- Phân tích nó thành những chi tiết cấu thành.
- Nhận dạng từ đồng nguyên của nó trong những ngôn ngữ khác.
- Truy vết nó và các đồng nguyên của nó đến một hình thức tổ tiên chung
trong một ngôn ngữ tổ tiên chung”.
7. Phạm Văn Thắm: Giới thiệu văn bản Annam tức sự (tra cứu thêm Annam tức
sự bản Hán Văn).
8. Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh CB, NXB KHXH 1978, Quốc Âm Thi Tập
tr 395 – Thủ Vĩ Ngâm.
9. Nguyễn Trãi toàn tập, sđd, tr 402.
10. Xem thêm Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên: Đại Việt Sử Ký Toàn
thư, ĐVSKTT NXB KHXH 1993, tr 187.
11. Nguyên văn: 言語無多別/衣冠不可同, trích Việt
Giới, thơ Trần Minh Tông.
12. Xem thêm: Nguyễn Phúc Anh: Những tư liệu về nguyên quán của Lý Công Uẩn,
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 8-9 (97-98) . 2012.
13. Toàn Thư sđd, Kỷ Nhà Trần, Thái Tông Hoàng Đế, tr 159 viết: “Trước
kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên
là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường”.
14. Cự Việt Quốc Thái úy Lý Công thạch bi minh tự. Dẫn theo Thơ văn Lý Trần.
Tập 1. Tr.464. Nguyên văn: 蠻夷猾夏,臣之罪也[...]禁止夷俗,拱手而受墨刑;盜賊邊民,喪膽而歸皇化.
15. Thiền Tông khóa hư ngữ lục - Quyển thượng - Phổ khuyến Bồ Đề tâm.
Nguyên văn: “... 三者既得生於中國,六根不具,四體非全,盲聾喑啞[...] 雖居華夏之中若處穷荒之外[...]今既為人得生中國,又以六根全具,豈為不貴乎! Dẫn theo
Trần Quang Đức, Ngàn năm Áo mũ, tr 25; NXB Nhã Nam, Thế Giới 2013.
16. Nguyên văn:“地連鄯善與雲南/俗雜冉龐兼僰北”, trích Án Thao Giang Lộ, thơ Phạm Sư Mạnh.
17. Nguyên văn: “俗雜獠夷民太古” trích Tuyên chiếu bái biệt Vận
phó Nguyễn Viêm, thơ Nguyễn Phi Khanh.
18. Nguyên văn: “武夫感泣觀唐詔/父老扶藜聽漢朝”, trích Phụng
chiếu Trường An đạo trung tác, thơ Nguyễn Phi Khanh. Tạm dịch: Người lính bật
khóc vì chiếu chỉ triều Đường/Phụ lão chống gậy đến nghe sắc lệnh nhà Hán.
19. Toàn Thư sđd, tr: 448: “Trẫm nay nối công tổ tông, giữ cơ nghiệp lớn.
Vỗ yên trung châu cùng man mọi, văn trị Đại Thuấn khắp ban; phát huy mưu trí của
đế vương, quy mô Chu Văn rộng mở”.
20. Nguyên văn tiếng Anh: “A nation is a soul, a spiritual principle. Two
things, which in truth are but one, constitute this soul or spiritual
principle. One lies in the past, one in the present. One is the possession in
common of a rich legacy of memories; the other is present-day consent, the
desire to live together, the will to perpetuate the value of the heritage that
one has received in an undivided for” – Bản dịch mà chúng tôi sử dụng là của
NNC Lê Tư đăng tải tại Đại Cáo – Huyền thoại về vị vua khai quốc (II).
21. Xem thêm: Xiufeng Huang và cộng sự: Genomic Insights into the
Demographic History of Southern Chinese.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO VÀ CÔNG CỤ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI
I - TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Nguyễn Hải Hoành “Vì sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với tiếng
Hán?”, Tạp Chí Tia Sáng; chế bản điện tử, xuất bản ngày 28/10/2023.
2. Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên: Đại Việt Sử Ký Toàn thư,
ĐVSKTT NXB KHXH 1993.
3. John Phan: Re-Imagining “Annam”: A New Analysis of Sino–Viet– Muong
Linguistic Contact
4. Nguyễn Tài Cần: Nguồn gốc hình thành và cách đọc Hán Việt, NXB ĐH Quốc
Gia Hà Nội.
5. Thơ văn Lý Trần, Nguyễn Huệ Chi (CB), NXB KHXH 1988.
6. Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh (CB), NXB KHXH 1978
7. NNC Lê Tư: Đại Cáo huyền thoại về vị vua Khai quốc
8. Phạm Văn Thắm: Giới thiệu văn bản Annam tức sự (tra cứu thêm Annam tức
sự bản Hán Văn).
9. Nola Cooke, Li Tana, and James A. Anderson: The Tongking Gulf Through
History (Vịnh Bắc Bộ cái nhìn xuyên lịch sử).
10. Trần Quốc Bảo (Viện nghiên cứu Việt Nam, Đại học Sư phạm Quảng Tây):
Tầm quan trọng của di dân Trung Nguyên trong thời đại nhà Đường đối với sự phát
triển của Annam. – Tạp chí nghiên cứu lịch sử Trung Quốc.
11. Xiufeng Huang và cộng sự: Genomic Insights into the Demographic
History of Southern Chinese.
II - TÀI LIỆU LIÊN QUAN
1. NNC Lê Tư: Hợp tác với quân Minh người Kinh Lộ
2. PGS, TS Đinh Hồng Hải: Talk Cà phê thứ 7 – Lạc Việt là Lạc Việt nào,
tìm hiểu phân loại tộc người ở Việt Nam và Trung Quốc
3. John Phan, Trần Trọng Dương: MT talk 25: Nguồn gốc người Việt góc nhìn
ngôn ngữ.
4. John Phan: Lacquered Words: the Evolution of Vietnamese under Sinitic
Influences from the 1st Century BCE to the 17th Century CE.
5. Trần Quang Đức: Ngàn năm áo mũ. NXB Nhã Nam, Thế Giới 2013.
6. Nguyễn Phúc Anh, tư liệu về nguyên quán Lý Công Uẩn. Tạp chí Nghiên cứu
và Phát triển, số 8-9 (97-98) . 2012.
7. Trần Quốc Vương: Khoa Lịch Sử, Đại học KHXH và Nhân Văn: Ghi chú về những
tương đồng và dị biệt về những giá trị văn hóa Đông Á giữa Việt Nam và các nước
Đông Á khác.
8. TS Tạ Thành Tấn: Talk Cà phê thứ 7 - Quan hệ cội nguồn của tiếng Việt
- những thành tựu, trở ngại và gợi mở.
III - TỪ ĐIỂN VÀ CÔNG CỤ ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG BÀI
1. Baxter-Sagart: Baxter-Sagart Old Chinese reconstruction, version 1.1
(20 September 2014) William H. Baxter (⽩白⼀一平) and
Laurent Sagart (沙加爾)
2. Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển – Trần Trọng Dương
3. Dữ liệu về ngôn ngữ Mon Khmer trên sealang
4. Từ điển Việt Bồ La của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
5. Etymology en.wiktionary
6. Hán Điển (online)
HÌNH :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=6815091338570667&set=pcb.6815093991903735
https://www.facebook.com/photo?fbid=6815091945237273&set=pcb.6815093991903735
https://www.facebook.com/photo?fbid=6815092838570517&set=pcb.6815093991903735
https://www.facebook.com/photo?fbid=6815092945237173&set=pcb.6815093991903735
https://www.facebook.com/photo?fbid=6815093111903823&set=pcb.6815093991903735
No comments:
Post a Comment