Những
lần khủng hoảng eo biển Đài Loan trong lịch sử
Duy Anh
-
ZingNews
Thứ năm,
4/8/2022 05:24 (GMT+7)
https://zingnews.vn/nhung-lan-khung-hoang-eo-bien-dai-loan-trong-lich-su-post1341996.html
Sau năm
1949, Đài Loan và Trung Quốc đã nhiều lần rơi vào khủng hoảng chính trị quân sự,
trong đó hai lần chiến sự nổ ra.
Từ những
ngày đầu chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đại lục, chuyển
về Đài Loan vào cuối năm 1949, hai bờ eo biển Đài Loan đã liên tục là điểm nóng
địa chính trị của thế giới.
Tại điểm hẹp
nhất của eo biển, hai bờ giữa Đài Loan và đại lục chỉ cách nhau 130 km. Eo biển
Đài Loan là tuyến vận chuyển quốc tế lớn của châu Á nói riêng và thế giới nói
chung. Những tháng qua, căng thẳng chính trị, quân sự giữa hai bên ngày một
tăng cao.
Hôm 2/8,
Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi tới thăm chính thức Đài Loan. Từ khi thông tin
chuyến đi chỉ mới manh nha, Trung Quốc đã liên tiếp đưa ra những tuyên bố với mức
độ ngày một gay gắt.
Khi bà
Pelosi đặt chân tới sân bay Tùng Sơn tối 2/8, Bắc Kinh thông báo hàng loạt cuộc
tập trận bắn đạn thật trên vùng trời và vùng biển Đài Loan.
Nhưng chuyến
đi tới Đài Bắc lần này của bà Pelosi không phải lần đầu tiên khủng hoảng xảy ra
giữa hai bờ eo biển. Trong quá khứ, đã có ít nhất 3 lần căng thẳng giữa Đài
Loan và Trung Quốc sục sôi, theo AFP.
Khủng hoảng Đài Loan lần thứ nhất
Vào cuối nội
chiến 1949, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do Chủ tịch Mao Trạch Đông lãnh
đạo đã đẩy lui hoàn toàn lực lượng Quốc Dân đảng khỏi đại lục.
Ở đại lục,
đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hay nước Trung
Quốc ngày nay.
Trong khi
đó, Quốc Dân đảng rút về Đài Loan, lập chính quyền, quản trị hòn đảo cho đến hiện
tại. Đài Loan đến nay được đa phần cộng đồng quốc tế công nhận là một phần lãnh
thổ hợp pháp của Trung Quốc đại lục.
Cuộc khủng
hoảng đầu tiên giữa hai bờ eo biển Đài Loan nổ ra tháng 8/1954. Thời điểm đó, lực
lượng Quốc Dân đảng triển khai hàng nghìn binh sĩ tại hai đảo Kim Môn và Mã Tổ,
nơi chỉ cách bờ biển đại lục vài km.
https://znews-photo.zingcdn.me/w860/Uploaded/jaegtn/2022_08_03/kim_mon.jpg
Lực
lượng Đài Loan trên đảo Kim Môn trong cuộc khủng hoảng năm 1954. Ảnh: Getty.
Quân đội
Trung Quốc phản ứng bằng cách pháo kích hai 2 hòn đảo Kim Môn và Mã Tổ, đồng thời
triển khai lực lượng tiến đánh quần đảo Nhất Giang San, cách Đài Bắc 400 km về
phía bắc.
Cuộc khủng
hoảng lần thứ nhất đã đẩy Trung Quốc và Mỹ tiến sát một cuộc xung đột quân sự
trực tiếp, trước khi được các bên tháo ngòi căng thẳng tháng 1/1955.
Kết quả,
Trung Quốc giành quyền kiểm soát quần đảo Nhất Giang San và Đại Trần từ tay lực
lượng Quốc Dân đảng.
Khủng hoảng Đài Loan lần hai
Giao tranh
giữa quân đội Trung Quốc và lực lượng Đài Loan nổ ra một lần nữa năm 1958.
Trong nỗ lực đánh bật lực lượng Đài Loan tại Kim Môn và Mã Tổ, quân đội Trung
Quốc đã pháo kích vào hai đảo này.
Lo ngại việc
mất Kim Môn và Mã Tổ có thể tạo ra phản ứng dây chuyền, dẫn tới sự sụp đổ của
chính quyền tại Đài Loan, Tổng thống Dwight Eisenhower ra lệnh cho quân đội Mỹ ở
khu vực chi viện và tiếp tế hậu cần cho lực lượng Đài Loan.
https://znews-photo.zingcdn.me/w860/Uploaded/jaegtn/2022_08_03/tuong_gioi_thach.jpg
Lãnh
đạo Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch và Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles. Ảnh: Getty.
Thậm chí,
đã có thời điểm Washington cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân nhắm vào Trung Quốc,
tuy nhiên vũ khí này đã không bao giờ được triển khai.
Thất bại
trong việc kiểm soát hai đảo Kim Môn và Mã Tổ, cũng như việc pháo kích không thể
khuất phục lực lượng Đài Loan, Bắc Kinh sau đó tuyên bố ngừng bắn.
Dù vậy,
các vụ pháo kích lẻ tẻ nhắm vào Kim Môn vẫn tiếp tục diễn ra cho tới năm 1979.
Khủng hoảng Đài Loan lần ba
Sau cuộc
khủng hoảng lần thứ hai, cả Đài Loan và Trung Quốc đều trải qua những thay đổi
to lớn.
Năm 1971,
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 2758, theo đó công nhận Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa là chính quyền đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc
tại Liên Hợp Quốc. Trước đó, tư cách này thuộc về chính quyền Đài Loan.
Tại đại lục,
dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, Bắc Kinh bình thường hóa quan hệ với Mỹ và
phương Tây. Từ đó, Trung Quốc mở cửa nền kinh tế, trải qua thời kỳ cải cách và
phát triển mạnh mẽ.
Trong khi
đó, sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời năm 1975, nền chính trị Đài Loan dần chuyển
sang mô hình dân chủ hơn. Năm 1996, cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên được tổ chức tại
Đài Loan.
Năm 1995,
căng thẳng giữa hai bờ eo biển một lần nữa nổ ra khi Trung Quốc phóng hàng loạt
tên lửa vào vùng biển quanh Đài Loan. Đây là động thái nhằm phản đối nhà lãnh đạo
Đài Loan khi đó, ông Lý Đăng Huy, thăm Đại học Cornell ở Mỹ - nơi ông Lý từng
theo học.
https://znews-photo.zingcdn.me/w860/Uploaded/jaegtn/2022_08_03/ly_dang_huy.jpg
Cố lãnh đạo Đài Loan Lý Đăng Huy. Ảnh: AP.
Lý Đăng
Huy là nhân vật đặc biệt không được lòng Bắc Kinh. Ông Lý là người ủng hộ tư tưởng
độc lập, đồng thời cũng là nhà lãnh đạo đã thúc đẩy hàng loạt cải cách trong hệ
thống chính trị của hòn đảo.
Năm 1996,
khi Đài Loan lần đầu tổ chức bầu cử trực tiếp chức danh lãnh đạo, Trung Quốc tiến
hành thêm nhiều vụ phóng tên lửa khác.
Màn răn đe
của Bắc Kinh cuối cùng dẫn đến phản ứng của Mỹ. Tổng thống Bill Clinton khi đó
ra lệnh điều động 2 nhóm tác chiến tàu sân bay tới eo biển Đài Loan, buộc Bắc
Kinh dừng các động thái gây sức ép.
Ông Lý
Đăng Huy sau đó chiến thắng trong bầu cử năm 1996 với tỷ lệ ủng hộ áp đảo đối
thủ của đảng Dân Tiến. Một năm sau đó, Chủ tịch Hạ viện Newt Gingrich trở thành
lãnh đạo Hạ viện Mỹ đầu tiên thăm Đài Loan.
-------------------------------
BÀI LIÊN QUAN
Trung
Quốc tập trận tại khu vực gần đảo Hải Nam
Tài khoản
Twitter của Thời báo Hoàn cầu cho biết Cục Hải sự tỉnh Hải Nam ngày 1/8 thông
báo Trung Quốc tập trận tại khu vực gần đảo Hải Nam ngày 2-6/8.
.
Trung
Quốc cấm vận hàng loạt sản phẩm Đài Loan, trừ chất bán dẫn
Thêm nhiều
hàng hóa Đài Loan bị Trung Quốc đưa vào danh sách cấm nhập khẩu, nhưng trong đó
không có chip bán dẫn.
.
Chính phủ
của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) buộc phải tuân thủ Nghị quyết
của nó, nhưng dân thường chúng ta thì đâu có nhất thiết phải tuân thủ. LHQ đuổi
Trung Hoa Dân Quốc và kết nạp Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vào thay chân nó, cho
nên chính phủ các nước gọi CHND Trung Hoa là “nước”, còn Trung Hoa Dân quốc vốn
là một nước nhưng phải gọi là “vùng lãnh thổ Đài Loan”.
Một số
doanh nghiệp lớn của thế giới có buôn bán với Trung Quốc nếu không tuân thủ
nguyên tắc “một Trung Quốc” có thể bị chính quyền Bắc Kinh gây khó dễ, nhưng
dân thường chúng ta gọi các quốc gia theo đúng tên của nó, hà cớ gì phải gọi
theo lệnh do các cường quốc áp đặt ?
Đài Loan
hiện nay chính là Trung Hoa Dân Quốc. Dù là phần lãnh thổ còn lại của Trung Hoa
Dân Quốc nhưng nó vẫn là một nước – Trung Hoa Dân Quốc.
Trung Hoa
Dân Quốc là nước cộng hoà ra đời năm 1912 sau Cách mạng Tân Hợi, do Tôn Dật
Tiên sáng lập. Nó bao gồm toàn thể đất nước Trung Quốc. Nền Cộng hoà ấy ra đời
tại một quốc gia quá rộng lớn và quá phức tạp, không đủ sức đối phó với thù
trong giặc ngoài. Trong nước thì quân phiệt cát cứ, các thế lực thi nhau xâu
xé. Ngoài nước thì liên tục bị xâm lăng. Cho nên Trung Hoa Dân Quốc chưa bao giờ
thống nhất được lãnh thổ. Dù vậy, trước Đại chiến 2, Trung Hoa Dân Quốc đứng đầu
là Tưởng Giới Thạch cũng là một trong những quốc gia mạnh trong đồng minh chống
phát xít. Sau Đại chiến 2, nó là một trong những quốc gia sáng lập LHQ và trở
thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an.
Sau khi những
người cộng sản Trung Quốc nổi dậy giành chính quyền ở đại lục, lãnh thổ của
Trung Hoa Dân Quốc liên tục bị thu hẹp, cuối cùng chỉ còn lại Đài Loan. Từ đó,
chính quyền Trung Hoa Dân Quốc được củng cố ở nơi này, ban đầu họ cũng có ý định
lấy lại đất ở đại lục, nhưng sau đó thấy không khả thi nên chỉ củng cố nền cộng
hoà để tập trung phát triển kinh tế, trở thành một trong những “con hổ” kinh tế
ở châu Á. Mô hình tăng trưởng của họ rất có sức thuyết phục. Nước ta khi bước
vào đổi mới đã cử nhiều chuyên gia sang học tập. Nước ta vẫn có quan hệ kinh tế,
văn hoá và khoa học rất tốt với Đài Loan.
Tuy bị thu
hẹp ở Đài Loan, nhưng từ đó đến năm 1971, Trung Hoa Dân Quốc vẫn là một trong 5
quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Khi thấy CHND Trung Hoa hứa
hẹn trở thành một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng, đồng thời để kiềm chế Liên
Xô, Mỹ được các cường quốc phương Tây phụ hoạ liền “đi đêm” với CHND Trung Hoa.
Họ đã mang Trung Hoa Dân Quốc làm vật hy sinh để đổi lấy những lợi ích tiềm
tàng từ đại lục. Kết quả là Trung hoa Dân Quốc bị đuổi ra khỏi LHQ, giành ghế
cho CHND Trung Hoa.
Cần biết rằng
Đài Loan là lãnh thổ của Trung Hoa, nhưng Đài Loan chưa bao giờ thuộc CHND
Trung Hoa. Họ cướp được chính quyền ở đại lục nhưng chưa bao giờ cướp được
chính quyền ở Đài Loan. Trong thế giới hiện đại, dùng vũ lực để cướp chính quyền
thì xưa lắm rồi. Tôi không biết người dân Đài Loan và người dân đại lục có mong
muốn thống nhất hay không, nhưng người dân hai bên đều muốn hoà bình, thịnh vượng
và tự do là điều chắc chắn.
Dưới sức
ép của Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc đang bị cô lập về ngoại giao trên thế giới.
Nhưng đối với người dân của họ, Trung Hoa Dân Quốc vẫn là một nước độc lập có
chủ quyền và căn bản được tự do. Hiện nay GDP đầu người một năm của Đài Loan
hơn 32 ngàn đô la Mỹ (năm 2021), cao hơn 2,5 lần so với Trung Quốc (12.550
USD). Giáo dục, y tế và phúc lợi mà người dân Đài Loan được hưởng đều tốt hơn
Trung Quốc. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ biết người dân Đài Loan có muốn thống nhất
bằng cách nhập vào Trung Quốc hay không.
Dùng LHQ để
“đoạt khống” Đài Loan. Đoạt khống là não trạng bá quyền của Trung Quốc từ rất
lâu đời. Điều kỳ lạ là Mỹ và phương Tây nhân danh tự do dân chủ nhưng lại tiếp
tay cho sự “đoạt khống” đó. Giờ muốn đoạt thật bằng chiêu bài thống nhất. Muốn
thống nhất mà cô lập một cộng đồng dân cư hòng làm cho họ nghèo đi rồi suốt
ngày đe doạ dùng vũ lực thì thống nhất để làm chi?
Ghi chú: Dù là như vậy, chúng ta cũng
không thể quên Trung Hoa Dân Quốc đã chiếm mất đảo Ba Bình trong quần đảo Trường
Sa của ta vào năm 1956, sau khi họ chỉ còn lại Đài Loan. Lúc ấy chính quyền Việt
Nam Cộng hoà của ông Ngô Đình Diệm mới thành lập còn rất yếu ớt không đủ sức bảo
vệ, họ đã thuận tay “lượm” luôn đảo Ba Bình. Chúng ta trước sau gì cũng đòi lại
đảo Ba Bình do Trung Hoa Dân Quốc chiếm giữ trái phép, cũng như phải đòi lai
Hoàng Sa và phần còn lại của Trường Sa do CHND Trung Hoa, Philippine và
Malaysia cưỡng đoạt của ta. Nhưng đó là câu chuyện khác, không nằm trong nội
dung cái tút này.
H.H.V.
.
No comments:
Post a Comment