Saturday, August 20, 2022

KẺ TÀ ĐẠO & KẺ CUỒNG TÍN (Trịnh Y Thư / Văn Việt)

 



Kẻ tà đạo & Kẻ cuồng tín

Trịnh Y Thư

18 Tháng Tám, 2022

http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/ke-t-dao-ke-cuong-tn/

 

http://vanviet.info/wp-content/uploads/2022/08/clip_image0027.jpg

Nhà văn Salman Rushdie

 

Nhà văn Anh gốc Ấn Độ Salman Rushdie, trong lúc đang chuẩn bị diễn thuyết tại học viện Chautauqua, bang New York, hôm 12/8/2022 vừa qua, đã bị một kẻ lạ xông lên sân khấu đâm nhiều nhát dao chí tử. Ông được trực thăng bốc vào bệnh viện cấp cứu, và hai hôm sau báo chí loan tin là mạng sống của ông không đến nỗi bị đe dọa nhưng chắc chắn ông sẽ mất một con mắt. Bản tin lan đi nhanh chóng khắp nơi trên thế giới như ngọn lửa bốc trên đám rạ khô.

 

Kẻ tà đạo

 

Sự việc trên khiến tôi nhớ lại cách đây dễ thường gần 30 năm nhà văn Salman Rushdie viết cuốn Những vần thơ quỷ và Ayatollah Khomeini của xứ Iran đã làm náo động cả thế giới – nhất là nước Anh bởi ông nhà văn này mang quốc tịch Anh – khi hạ chiếu chỉ fatwa công khai cho người đi tìm ông xử tử, bởi vì, theo họ, cuốn tiểu thuyết chứa đựng những tư tưởng báng bổ đạo Hồi và Thánh Muhammad.

 

Để chứng tỏ đấy không phải lời đe dọa suông, họ cho người đánh bom khách sạn nơi ông nhà văn cư ngụ, ngay trung tâm đô thành London. Khá may, chỉ có một người thiệt mạng trong vụ đánh bom, còn ông nhà văn thì chẳng hề hấn gì. Tình hình căng thẳng đến nỗi Anh quốc và Iran cắt đứt quan hệ ngoại giao và Salman Rushdie đã phải lẩn tránh vào bóng tối.

 

Không, đừng hiểu lầm người Hồi giáo, đấy chỉ là quan điểm cuồng tín và hành động cực đoan của một thiểu số người đạo Hồi, những người diễn giải cuốn thánh kinh Qur’an dưới lăng kính thiển cận, cực đoan và sai lầm. Đa phần người ta đều nghĩ như thế. Xa hơn chút nữa, người ta xem những hành vi ấy có lẽ bắt nguồn từ sự thù ghét sâu sắc đối với thế giới Tây phương bởi quá khứ không mấy tốt đẹp từ những thế kỷ trước do chính sách thực dân áp đặt lên người Hồi giáo. Và đừng quên thời Trung cổ, các dân tộc Hồi đã từng có một nền văn minh rực rỡ và đất nước cường thịnh, lúc đó họ làm bá chủ cả một dải đất mênh mông trải dài từ Âu sang Á. Những hình ảnh này của quá khứ vẫn rơi rớt lùa về, thổi bụi bặm nhức nhối vào tâm khảm nhiều người Hồi giáo đến tận ngày nay. Hồi giáo, cũng như tất cả các tôn giáo khác, chủ trương hòa bình, lên án bạo động cũng như bất kỳ hành vi khủng bố nào. Ai cũng biết thế và mọi người ai nấy cảm thấy yên ổn, bình tâm với lời tuyên bố chung chung, vô thưởng vô phạt, đại loại như: “Chúng tôi lên án fatwa của Khomeini, nhưng chúng tôi cũng lên án mọi hình thức tấn công vào tôn giáo bởi điều đó xúc phạm nặng nề đến linh hồn những con người thành kính mộ đạo.”

 

Vâng, chẳng gì vô đạo lý hơn tấn công tôn giáo. Đúng. “Tấn công vào tôn giáo” là “xúc phạm nặng nề đến linh hồn những con người thành kính mộ đạo.”

 

Nhưng có thật Salman Rushdie đã tấn công tôn giáo không? Hay, bên dưới những tranh biện có tính phiến diện, thậm chí đạo đức giả ấy, có sự hiểu sai khá nghiêm trọng về bản thể tiểu thuyết?

 

Kỳ thực, đây không phải lần đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết gia bị săn đuổi, bị treo án tử hình vì những điều mình viết trong tác phẩm, gây khó chịu cho giai cấp thống trị. Chính Giáo hội Công giáo Roma – cách đây bốn, năm trăm năm – đã có chính sách đối xử vô cùng khắc nghiệt đối với những kẻ tà đạo như thế. Văn hào Pháp François Rabelais, nếu không có sự che chở hết lòng của Hoàng đế François I, của Đức Hồng Y Jean du Bellay, thì đã phải chịu chung số phận với không biết bao nhiêu người khác chết uất ức, oan khiên trên giàn hỏa thiêu khốc liệt của tòa án xử dị giáo – Inquisition! Và, ngay trong thế kỷ XX vừa qua, khi cái-gọi-là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa chiết tỏa lên các xã hội cộng sản, nào ai biết có bao nhiêu nhà văn, viết theo lương tâm mình, đã chết lần mòn trong các trại tập trung, trại cải tạo? Các chế độ cực hữu cũng không khá hơn chút nào. Lenin của cộng sản Nga giết Gumilev thì Franco của Phát-xít Tây Ban Nha cũng không tha chết cho Lorca. Giáo hội Công giáo Roma thế kỷ XVI, các chế độ cực tả, cực hữu, các thể chế thần quyền Hồi giáo ngày nay đều có chung một tâm thức như thế. Đối với họ, nhà văn là kẻ tà đạo nếu hắn không chịu uốn cong ngòi bút viết theo chỉ thị hay giáo điều của Trung ương, của Giáo hội. Bên cạnh lý do chính trị cần khai trừ những kẻ đi ngược lại đường lối, lý thuyết, chủ thuyết, giáo lý… của đảng phái, tôn giáo mình, những kẻ cầm quyền độc tài còn có một sai lầm cơ bản và tai hại hơn, đó là, họ hiểu sai tiểu thuyết là gì.

 

Trở lại với cuốn Những vần thơ quỷ của Salman Rushdie, những ai đọc kỹ cuốn tiểu thuyết này đều không nhận thấy tính cách báng bổ thánh thần của nó. Ngược lại là đằng khác. Phần lớn cuốn tiểu thuyết (độ bảy phần mười) tinh tế mổ xẻ đời sống những con người bị giằng co giữa hai xã hội: một bên là Tây phương mới mẻ, sinh động, phù phiếm, hướng ngoại và một bên là Đông phương cổ xưa, êm đềm, sâu lắng, hướng nội. Chủ đề ấy tái hiện thường xuyên trong các cuốn tiểu thuyết khác của Rushdie sau này.

 

Điều ấy dễ hiểu. Ông sinh ra tại Ấn Độ trong một gia đình Hồi giáo truyền thống, nhưng khi trưởng thành, ông là công dân Anh và sinh sống phần lớn thời gian tại châu Âu. Những đoạn bị xem là có tính cách báng bổ tôn giáo nằm trong phần hai cuốn sách dưới dạng thức một giấc mơ của nhân vật chính diện, Gibreel Farishta, và giấc mơ biến thành hiện thực khi anh chàng đem nó ra dựng thành phim, một cuốn phim thật tồi, do chính anh chàng thủ vai tổng lãnh thiên thần. Có người gọi đấy là văn chương “hiện thực huyền ảo”, một cụm từ có tính kinh viện, “one size fits all.

 

Đúng hơn, ta nên xem nó là cái khả lý mà Franz Kafka đã giới thiệu tường tận từ đầu thế kỷ XX. Nếu nhìn được như thế thì tất cả những gì bị xem là “báng bổ thánh thần” của Rushdie trở nên thi vị hết sức. Nhờ Rushdie, Hồi giáo trở nên có tính thơ. Rushdie không hề ca ngợi văn hóa đại chúng Tây phương, chẳng những thế ông còn nghiêm khắc phê phán tính phù phiếm của nó. Rushdie là một trong những nhà văn hàng đầu của nền văn học tiếng Anh đương đại. Năm 2007 ông được Nữ hoàng Anh Elizabeth II phong tước Hiệp sĩ – Sir Salman Rushdie! Ngày nay chúng ta phải gọi ông như thế – vì “những đóng góp to tát của ông vào nền văn học Anh Quốc.” Sẽ hiểu sai ông biết bao nếu chỉ dựa vào tầng trên cùng của văn bản, và như thế quả là bất công cho ông.

 

Không phải ai cũng nhìn vấn đề như thế. Và trong lúc chờ đợi Godot, các “kẻ tà đạo” đành chấp nhận thái độ thù nghịch đầy bất công của những người không hiểu hay không chịu hiểu mình.

 

Kẻ cuồng tín

 

Người cố sát nhà văn Rushdie là một thanh niên 24 tuổi tên Hadi Matar, một cư dân của thành phố Fairview, bang New Jersey. Khi vụ fatwa xảy ra, anh chưa ra đời, nhưng sự việc anh đâm (cho chết) nhà văn Rushdie khiến ai nấy đều nghĩ anh là kẻ cuồng tín, và nghi ngờ anh phải có chỉ thị từ chính quyền Hồi giáo xứ Iran. Tất cả còn trong vòng điều tra, nhưng gọi anh là kẻ cuồng tín thì không ai bào chữa hay bênh vực cho anh.

 

Nhưng cuồng tín là gì?

 

Bệnh cuồng tín (tiếng Anh có nhiều từ chỉ căn bệnh này: fanatics, ideologues, absolutists) là một trong những thuộc tính ghê sợ nhất của con người. Vì nó mà có chiến tranh hủy diệt, bởi những kẻ như vậy thường tự tin một cách chắc nịch rằng chỉ có họ mới sở hữu con đường độc nhất đi vào chân lý, một chân lý tuyệt hảo đến nỗi họ phải truyền đạt nó lên tất cả mọi người khác. Chân lý tuyệt đối này có thể là ý thức hệ tôn giáo hay chính trị, cánh hữu hay cánh tả, Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo, tự do hay cộng sản. Nói cách khác, không phải điều họ tin tưởng, mà là cách họ tin tưởng, rằng phán quyết về chân lý sau cùng là của họ, chẳng cần tìm kiếm đâu xa, chẳng cần minh chứng, chẳng bao giờ phải nghi hoặc.

 

Bệnh cuồng tín giống như á phiện hay ma túy. Kẻ có căn bệnh này say sưa với ý tưởng mình có trong đầu, hắn mất hết mọi khả năng phán đoán thông thường, và chỉ đạo cho mọi hành vi của hắn là một xung lực không thể kềm chế, thường dẫn đến những hậu quả tai hại cho chính bản thân hắn và những người xung quanh. Nếu là kẻ nắm quyền lực trong tay (quyền lực khiến người ta dễ biến thành cuồng tín) thì hậu quả sẽ khủng khiếp khôn lường, như kẻ có tên là Vladimir Putin hiện nay, và trong quá khứ, thế giới từng đổ nát không ít vì những kẻ như thế. Lịch sử mấy nghìn năm của loài người, từ thời cổ đại cho đến ngày nay, không thiếu những kẻ cuồng tín nắm quyền lực tuyệt đối trong tay. Nhưng rất may, nhân loại biết cách loại trừ những kẻ như vậy, nếu không trái đất này chắc đã nổ tung.

 

Còn lại phần nhiều là những kẻ cuồng tín không có quyền lực. Không có quyền lực nhưng cái miệng thì rất to. Và sớm muộn chúng ta đều bị những kẻ ấy phá quấy ít nhất đôi ba lần trong cuộc sống.

 

Kẻ cuồng tín là kẻ không biết Logos là gì. Theo triết học Hy Lạp cổ đại thì Logos là một lý tính toàn nguyên và phổ quát. Nó là nền tảng cho trật tự cùng trí tuệ, trí năng, trí khôn con người để từ đó mọi khả năng lý luận, mọi nhận thức về lẽ phải, lẽ công bình, nghĩa lý, đạo lý, luân lý, lý do, lý lẽ, sự biết điều, sự phải chăng, duyên do, duyên cớ, nguyên nhân, nguyên lý, vân vân, cấu thành con người. Thiếu nó con người biến thành con thú, sống hoàn toàn dựa vào bản năng sinh tồn, vô nhân cách. Ý nghĩa nguyên thủy của từ Logos theo thời gian biến thái dần, nhưng tựu trung nó là món quà độc nhất vô nhị Thượng Đế ban cho con người để con người lần mò tìm tòi ra cách sống chung với nhau trong thế gian này.

 

Kẻ cuồng tín cũng có trí năng, nhưng đó là một trí năng chập mạch, bởi họ lý luận rằng “Cái tôi cho là đúng, phải đúng, và đúng tuyệt đối, không ai có quyền ngăn cản tôi nghĩ như thế.” Quả thật, ta chẳng thể nào đối thoại một cách nghiêm chỉnh, ôn hòa, có tính cách xây dựng với một kẻ cuồng tín. Bạn dùng dữ kiện để biện minh cho sự thật ư? Vô ích. Bạn đưa ra quan điểm chung của đa số ư? Vô ích. Bạn vạch ra sự sai trái của hắn ư? Vô ích. Bạn chẳng thể nào lay chuyển, hòa giải những ý tưởng cực đoan bên trong não bộ hắn. Cho hắn cơ hội phát biểu, bạn chỉ “nối giáo cho giặc” phá tan cái etiquette hài hòa của xã hội.

Đó là quan điểm của giáo sư Benjamin De Motte viết trong một bài nghị luận đăng trên tờ Nation năm 1996.

 

Nhưng mặt khác, một giáo sư khác, ông Stephen L. Carter, thuộc đại học Luật khoa Yale, trong cuốn sách xuất bản năm 1998 nhan đề Civility, thì cho rằng, phương cách duy nhất để đối đầu với chủ nghĩa cuồng tín là lòng thương yêu. Trong cuốn sách đó, ông khuyên khi đối thoại với kẻ cuồng tín, ta nên lắng nghe họ với tất cả sự chân thành, mặc dù trong lòng ta thấy kinh tởm những điều họ thốt ra khỏi miệng. Nếu ta để tình cảm thông thường chi phối, lấy sự phẫn nộ kình chống lại sự phẫn nộ của kẻ đối thoại, ta chỉ chuốc vào bản thân sự đau khổ vì cảm giác cay đắng sau đó, và nung nấu trong lòng ý đồ trả thù. Như thế, nhìn ở bất cứ khía cạnh nào, bạn cũng sẽ biến thành một con người tồi tệ hơn cái bạn đang là.

 

Còn nếu bạn tỏ vẻ tôn trọng và lắng nghe quan điểm của hắn, bạn sẽ tránh được những tình cảm đen tối, và thay thế nó bằng một tình cảm êm đẹp hơn. Bằng cách lắng nghe, bạn sẽ dạy cho thế giới biết đôi điều về bạn. Thậm chí bạn có thể học hỏi thêm, bởi không phải cứ cùng quan điểm với mình mới cho mình hiểu biết thêm về cuộc sống.

 

Tiếp cận một kẻ cuồng tín với sự lắng nghe chân thành và bao dung, bạn sẽ giúp hắn nhiều lắm. Thời nay phần nhiều bọn họ đều là những kẻ buồn bã và cô đơn. Họ cuồng tín vì tâm hồn, tự ái họ bị thương tổn, sâu thẳm trong tâm khảm họ là cảm giác bị bỏ rơi, không ai đoái hoài. Nếu bạn vượt qua được ngưỡng cửa cực kỳ khó khăn của sự va chạm quan điểm, khiến người kia có cảm giác như mình đang được lắng nghe, có lẽ ở bình diện nhỏ nhoi đơn giản nào đó, bạn chạm vào đáy sự việc, tại sao từ một con người hiền lành dễ mến, hắn trở nên hung bạo sẵn sàng ăn thua đủ với bất cứ ai suy nghĩ ngược chiều, và quan trọng hơn, bạn tạo cơ hội để chiếc mặt nạ hung tợn rớt xuống, để hắn trở lại con người bình thường trước kia.

 

Giáo sư De Motte đúng hay giáo sư Carter đúng, vẫn là một tranh cãi (hy vọng là giữa những người không cuồng tín).

 

                                                     *

 

Trở lại với nhà văn Salman Rushdie, có lẽ ông sẽ sống sót sau vụ mưu sát ghê rợn này. Sống sót với câu hỏi được đặt ra: Sau khi ra khỏi giường bệnh, ông sẽ là con người khác không? Cận kề với cái chết có làm ông thay đổi cách suy nghĩ? Tôi nghĩ là không. Tôi tin một nhà văn chân chính như ông sẽ vẫn bám chặt một cách không khoan nhượng vào xác tín nhà văn là kẻ dám nói sự thật, bởi sự thật muôn đời vẫn là ngọn đuốc soi sáng cho con người biết lối mà sống như một con người.





No comments: