Phạm Long dịch
24/12/2019
Quán tính và bản chất
không thích nghe phản hồi của một nhóm lãnh đạo độc tài đang đưa Việt Nam vào
thảm hoạ kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, không quá trễ để nhóm lãnh đạo cấp
cao (nói chung là Bộ Chính trị) bác bỏ kế hoạch xây dựng đập thủy điện khổng lồ
của công ty quốc doanh PetroVietnam trên sông Mekong.
Nếu được xây lên, dự
án thuỷ điện Luang Prabang không phải là đập đầu tiên trên dòng chính Mekong
trên lãnh thổ Lào; biệt danh này đã thuộc về một con đập phía trên của một tập đoàn Thái Lan
xây tại Xayaburi. Và còn ba đập khác do các công ty Trung Quốc tài trợ và xây dựng,
có thể sẽ hoạt động trước dự án của PV Power, chi nhánh của PetroVietnam.
Dự án Luang Prabang
tiên liệu sẽ là một thảm trạng chính trị của Việt Nam, trừ khi có sự xét lại
vào giờ cuối. Chính nhóm lãnh đạo Việt Nam cho phép dự án này tiến hành. Khi bị chất vấn, đại diện Việt Nam đề cập đến việc phải
tôn trọng ràng buộc quốc tế, và có thể thật, PetroVietnam đã có thoả hiệp với
Lào vào năm 2007.
Từ đó, các đập trên
sông Mekong và các phụ lưu của nó đã gây ra thảm trạng môi sinh và kinh tế cho
hạ lưu Mekong, vùng thấp này là nơi sinh kế của 20 triệu nông, ngư dân Việt và
10 triệu dân Khơ me, một điều rõ ràng và không thể phủ nhận. Những tác động đó
không còn là phỏng đoán.
Vì khi bị đói phù
sa và chất dinh dưỡng hàng năm, tính màu mỡ vốn có của đồng bằng sông Cửu
Long đang bị thoái hoá. Nguồn di ngư ở đây vốn được cho là
nguồn cung cấp ngư sản trên đất liền lớn nhất thế giới, nhưng bây giờ di ngư (bị
chặn bởi các đập) không thể trở về những nơi chúng sinh sản, nên số lượng suy
giảm nhanh. Năm nay, vùng này bị trận đại hạn hán tiếp nối sau là lụt lội kỷ lục.
Biến đổi khí hậu là một phần nguyên nhân, nhưng theo chuyên gia Việt Nam, việc trữ và xả nước không điều
hợp của các hồ thuỷ điện thượng nguồn đã biến đổi dao động mùa bình thường mà
sinh kế nông, ngư dân cần phải có.
Mùa mưa vừa qua, mực
nước Biển hồ Tonle Sap vẫn ở dưới mức bình thường. Ảnh: Phạm Long
Tháng 6,
2019, PetroVietnam
xác nhận, sẵn sàng chủ trì Luang Prabang và kêu gọi chính phủ Việt Nam
thiết lập “khung chính sách” cho dự án. Theo báo cáo, PV Power có 38% khẩu phần,
chính phủ Lào 20%, và phần còn lại thuộc sở hữu của các nhóm “đầu tư tư nhân”,
sau đã bạch hóa là từ các công ty quốc doanh của Lào. Một tháng sau, Lào thông
báo chủ đích của họ cho Mekong River Commission (MRC), và tháng 10 MRC tuyên bố
khai mạc tiến trình tham vấn 6 tháng cho bất cứ nước nào trong lưu vực, Thái,
Lào, Cam Bốt hay Việt Nam cơ hội phản đối dự án.
Tiến trình tham vấn
chưa bác bỏ một dự án nào trong bốn dự án thủy điện dòng chính đã đệ nạp, và dù
các tổ chức NGO và tổ chức bán chính quyền, như Mạng Lưới Sông ngòi Việt Nam,
nhanh chóng phản đối dự án, giới thông thạo tình hình cho rằng, sẽ không có thành
viên MRC nào bác bỏ dự án Luang Prabang. Đến giờ này, họ đã đều đúng. Thêm vào
đó, có một
vài chuyên gia Việt phát biểu quanh
co, chấp nhận rằng, chuỗi hồ thủy điện ở thượng nguồn sớm muộn họ cũng xây,
nên chiến lược hay nhất cho Việt Nam là giảm thiểu thiệt hại bằng cách điều
hành dự án với ít thiệt hại nhất cho nông ngư dân. Họ còn viện dẫn là khi Việt
Nam rút ra, Trung Quốc sẽ thay thế.
Đem yếu tố Trung Quốc
vào chắc chắn sẽ gây căng thẳng cho quần chúng Việt Nam. Nhưng ngân hàng và
công ty Trung Quốc có thật sự thay thế khi Việt Nam rút ra không?
Về phía Trung Quốc,
Sinohydro, Datang International và China Power đều là các công ty quốc doanh,
đã nắm bài chủ trong việc khai thác Mekong và các phụ lưu của nó. Giờ đây, địa
điểm tốt để khai thác thủy điện tại Trung Quốc không còn nữa. Họ có ảnh hưởng rất
lớn đối với chính phủ Lào. Hoạt động của họ phù hợp rất tốt với chiến lược “Nhất
đái nhất lộ” xây dựng hạ tầng cơ sở của Bắc Kinh để nối kết Trung Quốc với Âu –
Á. Viễn tượng Trung Quốc chiếm lĩnh dự án Luang Prabang đang làm các chiến lược
gia Hà Nội có chủ trương giữ Lào trong quỹ đạo của Việt Nam băn khoăn lo lắng.
Tuy thế, có lý do tốt
khiến các đập dự trù trên Luang Prabang, Pak Lay, Pak Beng bên Lào hay Sambor
và Stung Treng bên Campuchia sẽ không thực hiện bởi Trung Quốc, Việt Nam hay nước
nào cả. Lý do này không liên quan đến phúc lợi cho dân cư vùng thấp hạ vực, mà
chỉ vì độ khả thi kinh tế của chính những dự án năng lượng khổng lồ. Đơn giản
vì là chi
phí sản xuất điện mặt trời giảm nhanh hơn cả tưởng tượng, nhờ tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Nhanh đến
nỗi đầu tư của các ngân hàng vào những dự án thủy điện lớn trên Mekong
đang bị ngờ vực.
Xét dự
án Pak Lay trên dòng chính Mekong, được cho phép tiến hành năm ngoái.
Sinohydro dự tính bắt đầu xây năm 2022 và hoàn tất năm 2029. Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung
Quốc cung cấp ngân quỹ chính cho dự án ứng trước 1,7 tỉ USD (chi phí
ngoại vi không được tính). Theo đánh giá kinh tế nộp cho MRC, Sinohydro sẽ bán
điện với giá 8,2 xu/kWh suốt 30 năm tuổi đời dự án và trả hết nợ cho ngân hàng
xuất nhập khẩu Trung Quốc vào năm thứ 18.
So với giá
điện mặt trời có thể cung cấp với giá 7 xu/kWh, (chi phí ngoại vi xem như
không có) có thể nhân thêm công suất tuỳ theo nhu cầu, và làm tại các hồ thủy
điện đã có sẵn, dự án như Pak Lay trở thành con khủng long kinh tế tiền sử.
Có điều đáng chú ý,
có lẽ Trung Quốc không nên quan tâm nếu việc xây đập bỗng ngừng lại vì nước này
dẫn đầu thế giới công nghệ sản xuất thiết bị điện mặt trời. Thực tế xét ra, việc
cạnh tranh tiến hành thủy điện Lào của Trung Quốc có quán tính đáng kế. Những
công ty quốc doanh Trung Quốc có lẽ đã nhúng chân quá sâu sẽ cố gánh chịu khi mặc
dù nhu cầu thủy điện Lào bị thu nhỏ.
Còn mức đầu tư của
Việt Nam vẫn tương đối thấp. Tuy dự định sắp ký kết một đầu tư lớn vào dự án
Luang Prabang, cho đến nay Việt Nam chưa bỏ nhiều vốn vào thủy điện ở Lào. Do
đó, nước này – tứ là công ty quốc doanh PetroVietnam – vẫn có thể rút lại lời hứa
với Lào vào năm 2007, dựa vào một nguyên tắc được thiết lập vững chắc của luật
quốc tế và luật hợp đồng: Là khi gặp phải “hoàn
cảnh không lường trước được, thay đổi căn bản” (Việt Nam) có thể được
miễn nghĩa vụ ghi trong hiệp ước hoặc hợp đồng đã ký kết.
Thực vậy, căn bản của
tình cảnh đã biến đổi ở hai phương diện:
Thứ nhất, tác động
của đập thủy điện Mekong và các phụ lưu không rõ rệt như bây giờ. Thời trước thủy
điện được xem như năng lượng tái tạo vô hại, chuyên gia chưa làm nghiên cứu về
những tác động xấu của chúng trên môi trường và sinh kế dân cư.
Thứ nhì, đến lợi
ích kinh tế và chi phí môi sinh của thủy điện so với các nguồn năng lượng khác
đã hoàn toàn thay đổi. Năng lượng mặt trời năm 2007 còn rất đắt, thậm chí được
xem là kỹ thuật phôi thai phải còn rất lâu mới có thể đóng góp một phần nhỏ vào
bảng cân bằng năng lượng cho thế giới.
Ngày nay những
trang trại điện mặt trời tiện ích có thể xây và hoạt động nhanh chóng nhân thêm
dần, sát theo nhu cầu, và chi phí
thấp hơn dự án thủy điện ngang năng suất (ngay khi các chi phí ngoại
vi về mất mát sinh kế, suy thoái sản phẩm không kể vào). Thay vì cho xây thêm đập,
chiến lược hiệu quả nhất cho Lào là phát triển các trang trại điện mặt trời nổi
trên mặt hồ, bổ túc cho những dự án thủy điện có sẵn.
Thật vậy, khi Thái
Lan và Việt Nam tái lập hệ thống điện năng để chuyển hướng sang điện gió và mặt
trời, mức nhập cảng năng lượng từ Lào của họ sẽ sụt giảm là một cơ nguy rất lớn
cho Lào.
Lời kết là
gì?
Nếu Việt Nam cố bảo
lãnh cho PV Power tham gia dự án Luang Prabang, Việt Nam có lẽ sẽ trở thành chủ
nhân của một dự án đầu tư rất đắt và thua lỗ. Khi việc này xảy ra, nhóm lãnh đạo
Hà Nội thiếu trách nhiệm không chỉ với dân cư Đồng bằng sông Cửu Long, mà còn với
các công dân Việt đóng thuế nữa.
_____
Tác giả: David Brown là người đóng góp bài vở thường xuyên
cho Asia Sentinel. Ông là cựu viên chức ngoại giao Hoa Kỳ, có nhiều kinh nghiệm
về các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam.
Mời đọc thêm: Năng lượng mặt trời sẽ nổi trên sông Mê Kông?
No comments:
Post a Comment