22/11/2019
Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi
trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem
lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
*
Cách đây chưa lâu, hai nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ
và Nguyễn Đông Nhật đã cho xuất bản cuốn Phác Hoạ Chân Dung Một Thế Hệ.
Theo báo chí nhà nước đây là “một hồi
ký đậm chất văn chương của hai con người đã từng sống, từng viết
và từng tranh đấu trong các đô thị miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” và
tác phẩm đã “đưa ‘giấc
mơ đẹp’của một thế hệ đến những thế hệ tiếp nối.”
“Giấc
mơ đẹp” này của hai nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ và Nguyễn Đông Nhật, chả may, lại là
ác mộng của một người làm thơ khác – cùng thời:
“tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày
của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ
lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất”
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ
lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất”
lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng
(Trần Vàng Sao – Người Đàn Ông 43 Tuổi Nói Về
Mình)
Toàn bản bài thơ thượng dẫn đã được đăng lại
trên trang Quà Tặng
Xứ Mưa, với đôi lời giới thiệu (rất buồn) về tác giả:
“Nhà
thơ Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính) ở Đường Tuy Lý Vương, Phường Vỹ Dạ,
Huế là nhà thơ nổi tiếng với bài thơ ‘Bài thơ người yêu nước mình’. Giữa lúc
phong trào ‘xuống đường’ ở Huế những năm 1965-1968 đang rầm rộ mà dám lấy bút
danh ‘Trần Vàng Sao’ là rất ghê gớm. Thế mà ,năm 1988, ông có bài thơ ‘ Người
đàn ông 43 tuổi nói về mình’ in ở Tạp chí Sông Hương đã gây nên cuộc cãi vã náo
loạn ở Huế. Cán bộ chính trị, các ‘nhà văn đỏ’ đua nhau suy diễn chính trị ,
phán xét. Đài phát thanh, báo đảng địa phương đăng nhiều bài viết chửi rửa nhà
thơ, họ ‘phỏng vấn’ cả các bà tiểu thương chợ Đông Ba để tố cáo nhà thơ. Trên
diễn đàn họ gọi Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ ( Tổng biên tập TC Sông Hương) là ‘bọn
tay sai của địch…”
Bách Khoa Toàn
Thư Mở Wikipedia cho biết chi tiết hơn:
“Trần
Vàng Sao sinh ở Thừa
Thiên – Huế, năm 1961 ông
thi đỗ tú tài rồi vào Đại
học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Trần
Quang Long, Ngô
Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công
tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao.
Năm 1970 ông được đưa
ra miền
Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy
nghĩ của ông về về cái gọi là ‘hậu phương xã hội chủ nghĩa’ đó và sau đó bị tố
cáo, đấu tố và cô lập đến nỗi ông có cảm giác ông không còn được coi là con người
mà đã thành ‘một con vật, một con chó, theo như Hồi ký ‘Tôi bị bắt (Nhớ lại những
năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)’ sau này của ông.”
Tập hồi ký này có thể đọc được ở diễn
đàn talawas.
Xin trích dẫn lại vài đoạn ngắn:
Thứ Ba, ngày 31.10.1978
Mong có một bữa cơm không, ăn với cá, cá vụn, với muối và một chút ớt.
Mong có một bữa cơm không, ăn với cá, cá vụn, với muối và một chút ớt.
Thứ Hai, 22.07.1979
Nhà cứ không có gạo hoài. Có nửa lon, một lon dành cho Bồ Câu. Phải bới sắn non, nhưng chỉ vài ba bữa, còn thì quá non. Hay chưa có được gạo. Giấy trả về làm việc từ 1.6. Chúng mày không có gạo thì chúng mày đói chứ tao có đói đâu.
Nhà cứ không có gạo hoài. Có nửa lon, một lon dành cho Bồ Câu. Phải bới sắn non, nhưng chỉ vài ba bữa, còn thì quá non. Hay chưa có được gạo. Giấy trả về làm việc từ 1.6. Chúng mày không có gạo thì chúng mày đói chứ tao có đói đâu.
Gạo.
Bây giờ ai cũng chỉ mong, không phải bữa nào
cũng cơm mà sắn cũng được, mỳ hột cũng được. Miễn là dộng vào cho đầy cái dạ
dày. Ước mơ của thiên hạ thì cũng đơn giản thôi: làm sao bữa nào nồi cũng đầy
cơm, đầy tràn ra, đến nỗi hôi khói. Có cơm ăn với chi cũng được, với muối, nước
mắm thì tuyệt rồi. Người ta không ao ước gì hơn nữa. Không có mơ ước, không có
hy vọng.
Và không ai dám nói ra những suy nghĩ của
mình về chế độ, thậm chí những suy nghĩ của mình về một người thứ ba cho một
người thứ hai nghe. Người ta phải nói láo hoặc nói nhỏ. Kinh khủng thật. Thành
ra có một không khí chính trị giả dối trong dân chúng. Nhưng mà chưa ai chết
ngay cho. Có người nói: không chết tươi ngay mà chỉ chết mòn, chết dần…
Phần đời (“vô hậu”) này của Nguyễn Đính gần
giống như hoàn cảnh sống cơ cực của Nguyễn Hữu Đang, sau 15 năm tù, qua cảm nhận
của Phùng
Cung:
Gót nhọc men về thung cũ
Qùi dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn
Cớ sao mà “cách mạng” lại “chiếu cố” Nguyễn Hữu
Đang tận tình (và tuyệt tình) như thế? Một trong những nguyên do – có thể nhìn
thấy được – là vì ông đã không chịu chấp nhận sự “xộc xệch” trong hiến pháp của
nước VNDCCH:
“Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất
hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp
lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ
khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào
khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc
người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị
thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng
nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại
có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị
thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn…”(Nhân văn
số 4, phát hành ngày 5.11.1956).
Sáu năm sau, vào năm 1961, “người ta đã trắng
trợn vu cáo” Nguyễn Hữu Đang là gián điệp. Mười hai năm sau nữa thì đến lượt
Nguyễn Đính bị vu cáo là CIA:
“Khi ra Bắc, ai giao nhiệm vụ cho anh? Nhiệm
vụ đó là nhiệm vụ gì? Anh đã gặp ai, ở đâu, bao giờ? Anh đã tổ chức họ như thế
nào? Công việc của anh hiện nay đã tiến hành đến đâu? Anh phải nói thật, nói hết,
không được giấu giếm. Sinh mạng của anh là do nơi sự thành khẩn của anh quyết định
đó…”
“Chúng tôi biết hết những việc anh làm, nhưng
chúng tôi muốn tự anh nói ra hết. Vì chỉ có như thế, anh mới hưởng được lượng
khoan hồng của Đảng…”
“CIA giỏi thật, cài anh ta vào sâu đến như thế”.
Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đính đều đã trải
qua nhiều năm tháng não nề, ê chề, và cay đắng. Họ bị chôn sống nhưng nhất định
không chịu chết. Hai ông, nói nào ngay, chỉ là hai nạn nhân tiêu biểu – của hai
thế hệ kế tiếp nhau – đã dấn thân vào cuộc cách mạng vô sản (và vô hậu) ở Việt
Nam.
Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Đào Duy Anh, Nguyễn
Bính, Hoàng Cầm, Phùng Cung, Trần Dần, Trần Duy, Phan Khôi, Dương Bích Liên, Hữu
Loan, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu… đều không còn nữa nhưng tâm cảm
trân trọng và qúi mến của mọi người dành cho họ chắc chắn sẽ còn lâu. Thế
hệ của Nguyễn Đính (e) khó có nhận được tình cảm tương tự.
Sự nông nổi, ồn ào và lố bịch của nhiều người
trong bọn họ khiến cho thiên hạ cảm thấy khó gần! Dù vở kịch cách mạng đã hạ
màn từ lâu, họ vẫn làm bộ như không có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra, vẫn cứ xưng
xưng coi đó như Một
Thời Để Nhớ, vẫn kịch cỡm viết sách tự phác hoạ Chân
Dung của thế hệ mình và xem là tác phẩm đã “đưa ‘giấc
mơ đẹp’ của một thế hệ đến những thế hệ tiếp nối.”
Hình bìa sách : http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2019/11/2-5.png
Họ cố tình quên rằng chính hiến pháp của hai
chế độ đệ I và đệ II Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam, tuy non trẻ và yếu ớt, vẫn
là đồ thật (chớ) không phải đồ sơn. Nó đã bảo vệ cho họ được sống như những con
người, với những quyền tự do tối thiểu, để có được “những hình ảnh khí phách” và “những
tháng ngày sục sôi” – thay vì bị
đạp vào mặt chỉ vì đi tuần hành biểu lộ lòng yêu nước. Họ đã được chế
độ hiện hành choàng vào người những vòng hoa (giả) nhưng cứ thế mà đeo mãi cho
đến cuối đời.
Tội!
No comments:
Post a Comment