Tưởng Năng Tiến
27/01/2024
https://baotiengdan.com/2024/01/27/chuyen-tau-tap-ket/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/01/1-42.png
Chuyên tàu tập kết ra Bắc
Đầu năm mới, cơ quan ngôn luận của Thông Tấn Xã
Việt Nam (trang Viet Nam Plus) hân hoan cho biết: “Ngày 2/1/2024, tại khu
vực bờ Nam sông Ông Đốc (Khóm 6B, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh
Cà Mau) Ủy ban Nhân dân tỉnh tổ chức Lễ khởi công xây dựng cụm Tượng đài kỷ niệm
Chuyến tàu tập kết ra Bắc năm 1954”.
Mẩu tin nói trên khiến tôi chợt nhớ đến đến bức
thư Hồ Chí Minh viết 70 năm trước (vào hôm 21 tháng 9 năm 1954) để “động viên” đám
người tập kết: “Tuy đồng bào đã phải tạm xa quê hương, nhưng lại được gần
Trung ương Đảng, Chính phủ, gần quân đội và đồng bào miền Bắc. Nam Bắc vẫn là một
nhà”.
Ổng nói đại vậy thôi, chớ hổng phải vậy đâu!
Cái khoảng thời gian mà thằng chả kêu là tạm xa
(thiệt ra) kéo dài gần một phần tư thế kỷ lận. Năm tháng đủ dài để
khiến cho vô số những cảnh đời dang dở, nhỡ nhàng, hay lỡ làng (hoặc
bẽ bàng) cùng không ít những mảnh đời tàn – lãng xẹt:
– “Gần nhà tôi có cụ Lập, hơn bảy chục tuổi, thổi
clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại, cùng dàn nhạc theo cách mạng, đánh
Pháp rồi tập kết ra Bắc cùng với Dương Quang Thiện, Lý Thương …
Bây giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ gia đình.
Nhưng cụ nắm tay tôi: Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện
ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân…
Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống
nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?” (Trần Đĩnh – Đèn Cù II.
Người Việt, CA: 2014).
– “Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu muơi mà Thanh
Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều… Muốn biết Thanh Tịnh
đơn độc thế nào phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, dưới
những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải
bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn”. (Vương Trí Nhàn – Cây Bút Đời Người.
Phương Nam, Hà Nội: 2002).
Không phải ai đi tập kết cũng âm thầm cam chịu như
cụ Lập clarinette, hay “đăm chiêu” và “đờ đẫn” như nhà văn Thanh Tịnh.
Lắm kẻ đã lựa chọn một cách ứng xử khác, rõ ràng và dứt khoát
hơn:
– “Hơn một chục anh có thái độ quyết liệt nhất
đã mang ba lô kéo nhau đứng trước thềm cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh, hô to: ‘Chúng
tôi xin được trở về miền Nam!’ Cơ quan tổng tư lệnh chỉ thị cho các đơn vị có
người ‘vô kỷ luật’ phải lên nhận người của mình đưa về đơn vị, tổ chức học tập
cho thông suốt…
Khi đến cơ quan tổng tư lệnh, chúng tôi mới
được biết không phải chỉ có 10 anh lính ‘vô tổ chức’ của tiểu đoàn 209 lên ‘nằm
vạ’ ở đây mà đã có hàng trăm quân nhân thuộc các đơn vị quân đội miền Nam kéo
lên nằm la liệt ở đây nhiều tháng rồi”. (Tống Văn Công – Đến Già Mới Tỉnh.
Người Việt, CA: 2016).
“Từ Hà Nội, Vũ Anh Khanh đi vào Vĩnh Linh và rồi bơi qua
sông Bến Hải… khi tới giữa sông thì công an bộ đội cộng sản phát giác… Họ bắn theo, không bằng súng, mà bằng cung
tên, mũi tên có tẩm thuốc độc, nên tác giả Sông Máu không bao giờ còn được hít
thở không khí tự do mà ông đã bỏ mất từ 1954, khi tập kết ra Bắc”. (Viên Linh –
“Bến Hải Thủy Mộ Quan Của Vũ Anh Khanh”. Người
Việt – July 3 2013).
Có lẽ cái chết thê thảm của bạn đồng nghiệp (và
đồng cảnh) khiến cho Xuân Vũ đổi ý. Thay vì vượt tuyến, ông đã trở
lại miền Nam bằng cách Vượt Trường Sơn. Đến nơi, nhà văn hồi
chánh và được đón tiếp long trọng chứ không phải sống dưới gầm cầu
– như ông đã tự nhủ lòng: “Nỗi day dứt về quê hương và gia đình, cộng với
những điều kỳ cục trong mấy năm dằng dặc trên đất Bắc làm cho tôi thấy mình đi
lạc đường. Sống trong nước mình mà cứ tưởng nước ai. Do đó tôi quyết chí trốn về
Nam, sống dưới gầm cầu cũng được”. (Xuân Vũ – “Chuyện Tục Về Một Vùng
Thanh”. Vanhoavn.bog – 04/1986).
HÌNH : https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/01/1-43.png
Tất nhiên, không phải ai cũng đều may mắn như vậy.
Cả một tập thể người dân bản địa chung chuyến (chuyến tầu tập kết)
thì xui xẻo hơn, thấy rõ:
“Chính quyền cộng sản đã chiêu dụ khoảng từ 6
đến 7.000 người Thượng tập kết, những người này được chở từ cảng Quy Nhơn đến
Hà Nội để sau đó được đi huấn luyện tại Trường các dân tộc ít người miền Nam,
những thành phần ưu tú sau đó được đưa đi huấn luyện tại Trường sư phạm trung
ương, chỉ vài người thật xuất sắc mới được đưa sang Bắc Kinh đào tạo thêm.
Ước mơ duy nhất của các chiến sĩ gốc Tây
Nguyên trong suốt 20 năm thoát ly đi tập kết, 20 năm tham gia đấu tranh giành độc
lập, để thấy Tây Nguyên tự trị ngày nay tan vào mây khói”.
(Ya Biloh – “Việt Nam-Đất & Người: Nguyên nhân giải thể Phong trào Tây
Nguyên Tự Trị”. Thông Luận: 06/2005).
Nguyên cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam còn “tan
vào mây khói” thì xá chi cái Mặt Trận Giải Phóng Tây Nguyên. Câu hỏi
đặt ra là, sao mọi người (Kinh cũng như Thượng) lại có thể bị lừa
gạt một cách dễ dàng như thế?
Ở bên này giới tuyến người dân thiếu thông tin hay
không ai nhìn ra vấn đề? Có lẽ cả hai. Hơn chục năm sau, sau thời hạn
tập kết, ở miền Nam mới xuất hiện một bài báo ngăn ngắn và chắc
cũng chả mấy kẻ để tâm:
“Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng
trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả
năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố
ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi người ở.
Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần
tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc
khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy
nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy
cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v… là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập
kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến
cho chúng …
Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu
từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ
sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu
từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia.
Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc
liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc
liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám
cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng
cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải
là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa
bụa từ 1954”. (Võ Phiến – “Bắt Trẻ Đồng Xanh”. Tạp
Chí Bách Khoa: 10/1968).
Những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ
1954, những chàng trai ra đi rồi không có lối về, và
những chiến sĩ tập kết gốc Tây Nguyên (e) không mấy người còn tại thế.
Nếu còn (chắc) cũng chả mấy ai hân hoan, vui sướng hay hãnh diện khi
thấy những tượng đài của chuyến tầu tập kết – kỷ niệm của bao
chuyện bẽ bàng (hay phũ phàng) hoặc buồn thương và hối tiếc.
RFA đặt câu hỏi: “Có cần thiết xây tượng đài kỷ niệm chuyến tàu tập kết ra Bắc
năm 1954?”
Hỏi gì mà lảng nhách, vậy Trời?
Chớ không “xây” thì lấy gì ra để “cất”?
No comments:
Post a Comment