Cố
gắng bôi xoá, nhưng mà thật đáng thương…
Phạm Lưu Vũ -
Saigon Nhỏ
25 tháng 1, 2024
https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/ben-tach-tra/co-gang-boi-xoa-nhung-ma-dang-thuong/
LTS: Yêu lịch sử, yêu dân tộc… là trào lưu gần
đây của nhà cầm quyền cộng sản. Bởi dù xưng danh là trung thành với con đường cộng
sản chủ nghĩa – tam vô, nhưng nếu thiếu chủ nghĩa dân tộc thì không đủ chính
danh để cầm quyền. Đó là lý do mà sách vở, báo chí viết về lịch sử Việt bắt đầu
được đẩy mạnh.
Thế nhưng, hầu hết những gì cần làm thì nền
văn hoá Việt Nam Cộng Hoà đã làm đủ, và đầy giá trị. Mang mặc cảm là không muốn
dùng lại sản phẩm văn hoá của “kẻ thù”, nên Hà Nội cho viết lại, dịch lại… nhiều
thứ. Một trong những câu chuyện tiêu biểu là 4 câu thơ của Lý Thường Kiệt, với
bản dịch của học giả Trần Trọng Kim đã được dùng bao năm nay, đang bị thay thế
bởi nhiều bản dịch của các trí thức nhà nước. Mà câu chuyện dưới đây, hết sức dở
khóc dở cười, được nhà văn Phạm Lưu Vũ ở Hà Nội chỉ ra trong bài viết có tựa “Về
bài thơ thần”.
*
Về bài thơ “Thần” mà người Việt hầu như ai cũng thuộc:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Tương truyền là của Lý Thường Kiệt, song một số học giả
tân thời thống nhất lại là không rõ tác giả, và xuất hiện từ thời Lê Đại Hành.
Cũng ổn thôi, vì thời ấy, vị vua anh hùng này đã chỉ huy quân dân Đại Cồ Việt
đánh tan quân xâm lược nhà Tống. Và cũng là vị vua duy nhất trong lịch sử sau
khi chết không được đặt tên thụy, cứ phải mang danh “đại hành Hoàng đế” cho đến
tận bây giờ. Thụy là tên hiệu của người ngủ giấc vĩnh hằng, còn “đại hành” là
danh từ chung, chỉ vua chết, vua nào chết cũng gọi là “đại hành” (cuộc đi lớn),
cũng như Phật chết gọi là “đại bát” (Niết Bàn) – cuộc dạo chơi lớn trong Niết
Bàn. Chắc không phải do triều đình nhà Tiền Lê quên, mà thuở ấy, sự tiếp thu
văn hóa phương Bắc của các cụ ta vẫn còn lúng túng chăng?
Bài thơ trên được cụ Trần Trọng Kim dịch, dùng cho sách
giáo khoa ngót trăm năm nay, những thế hệ chúng tôi ai cũng thuộc lòng:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rõ ràng sách Trời đã phân định
Cớ sao quân giặc dám xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Mãi đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, một lần đến hầu
chuyện cố họa sĩ Phạm Công Thành ở Yết Kiêu, bác Thành là người tinh thông Dịch
lý, tôi đã được bác giảng cho, rằng dịch như thế là sai, ngay câu đầu tiên.
Không có “ông vua” nào ở đây cả. “Nam đế cư” là ngôi “đế”
đóng tại phương Nam, thì cả “Sông núi nước Nam” thuộc về ngôi đế, điều đó đã
phân định rõ trong “sách Trời”. Sách Trời ở đây bác Thành giảng là kinh Dịch,
phía Nam là phương vị của quẻ Ly (hỏa). Mặt trời, vua là “tượng” của quẻ Ly,
cũng như mặt Trăng, bề tôi là “tượng” của quẻ Khôn. Đây là lý do bà phu nhân họ
Nhữ vì nổi giận mà bỏ ông Văn Định, vì ông đã đem chữ “nguyệt” (mặt Trăng) ra dạy
con là Văn Đạt (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Bác Thành chỉ giảng đến đấy, tôi cũng phục lắm rồi. Sau
này, tôi còn phát hiện thêm, rằng “thiên thư” dịch nghĩa đen là sách Trời,
nhưng phải hiểu là “thiên văn”, cụ thể là Thái Ất, một pho sách về thiên văn, lấy
sao Bắc Đẩu làm trung tâm, dùng số học để “đọc” vũ trụ, được các cụ ta áp dụng
vào việc binh, nhìn sao để bày trận, trương cờ, xem gió để biết thế địch, ta…
Chính Đức Hưng Đạo Đại Vương cũng dùng Thái Ất để soạn “Binh Thư Yếu Lược”,
không thèm coi “Binh Pháp Tôn Tử” ra cái gì. Kết quả đã ngăn lũ phương Bắc (quẻ
Khảm) thành công, bảo vệ “Nam quốc sơn hà”, lần nào cũng thắng lợi.
Pho Thái Ất có từ trước thời vua Lê Đại Hành, do người Việt
làm ra, không phải người Hán. Nên các cụ ta dẫu có lúng túng trong việc đặt tên
thụy cho “đại hành Hoàng đế” theo tục phương Bắc, thì cũng rất giỏi thiên văn rồi,
cho nên mới khẳng định một cách hùng hồn như thế.
Tiếp đến câu thứ ba thì dịch như trên là ổn. Nhưng câu kết
thứ tư thì sai nghiêm trọng, khiến nhiều thế hệ như chúng tôi bị đánh lừa ngót
trăm năm nay.
Câu kết: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” thì hai chữ “nhữ
đẳng” không có nghĩa là “chúng bay” (trỏ quân giặc), mà là “các ngươi” (trỏ tướng
sĩ của ta). Trong “Hịch tướng sĩ”, Đức Hưng Đạo Đại vương đã dùng hai chữ “nhữ
đẳng” tới 16 lần, đều được các cụ dịch là “các ngươi” cả. Điều kì lạ là chính cụ
Trần Trọng Kim cũng dịch “Hịch tướng sĩ” như thế, mà ở đây lại dịch thành
“chúng bay”?
Và như một sự cố ý? Cụ Kim đã bỏ qua không dịch hai chữ
tiếp theo là “hành khan”. “Nhữ đẳng hành khan” nghĩa là nếu các ngươi chỉ ngồi
xem (mà không làm gì cả), thì sẽ “thủ bại hư”, nghĩa là tự chuốc lấy thất bại.
Rõ ràng là cảnh báo tướng sĩ của mình, chứ không phải cảnh cáo quân giặc.
Với một người có kiến văn trung bình, cũng đủ hiểu từ cái
“tứ” của câu này, mà Đức Trần Hưng Đạo đã viết nên Hịch tướng sĩ bất hủ. Đoạn
Ngài viết: “Nhữ đẳng tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu / Thân đương quốc sỉ, tằng
bất vi quý…” (Các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo / thấy nước bị làm nhục
mà không biết sợ…), rõ ràng là cùng một “tứ” với câu “Nhữ đẳng hành khan thủ bại
hư”. Binh pháp từ Thái Ất mà ra, nhưng thuận đạo trời cũng chưa chắc đã cát,
nghịch đạo trời cũng chưa chắc đã hung, mất nhân tâm thì chắc chắn bại là nghĩa
như vậy.
Cụ Trần Trọng Kim là chính khách, là Nho gia, là học giả…
mà dịch như thế thì quả cũng kì lạ, khiến cho đời nay coi bài thơ “thần” là bản
“tuyên ngôn” đầu tiên (thực ra chỉ đúng với 2 câu đầu). Và biết bao thế hệ học
trò, cho đến tận bây giờ vẫn thuộc lòng sự sai sót chết người ấy.
Thậm chí ngày nay còn tệ hại hơn cả bản dịch của cụ Kim,
là SGK ngữ văn lớp 8, còn “cải tiến” bằng bản dịch của Ngô Linh Ngọc (chắc cũng
tiến sĩ, bộ sậu của GS Thuyết). Sự thậm tệ đến mức dở chữ, dở người, cười không
nổi ấy của tác giả Ngô Linh Ngọc như sau:
“Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự
Sách trời phân định rõ non sông
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong”
Ôi, thật là…
————————–
(*) Tựa do Sài Gòn Nhỏ đặt lại
No comments:
Post a Comment