Mấy ngày nay, nhiều người hỏi tôi ủng hộ hay phản đối
việc Bob Kerrey – cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – giữ vai trò Chủ tịch
Hội đồng Quản trị của Đại học Fulbright Việt Nam (FUV). Để trả lời câu hỏi này,
tôi sẽ kể lại hành trình nhận thức của mình về Bob Kerrey.
Hơn nửa năm trước, khi biết Bob Kerrey được mời làm
Chủ tịch HĐQT của FUV, phản ứng đầu tiên của tôi là phản đối. Lý do rất đơn giản
và hiển nhiên: Tội ác kinh khủng ông gây ra trong cuộc tàn sát ở Thạnh Phong
năm 1969 tương phản và làm vấy bẩn sứ mệnh cao đẹp của Trường Đại học Fulbright
Việt Nam.
Nhưng khi hiểu thêm về Bob Kerrey, những điều ông
nói và những việc ông làm, đồng thời được nghe kể nhiều câu chuyện đầy éo le và
bi kịch từ cựu chiến binh ở cả hai phía, tôi đã nhận ra ở Kerrey một con người
khác, thoát xác từ chính đại úy biệt kích SEAL trước đây.
Trong suốt hơn một phần tư thế kỷ trở lại đây, “bộ
ba thượng nghị sỹ” John Kerry, John McCain và Bob Kerrey cũng như nhiều cựu chiến
binh khác đã nỗ lực không mệt mỏi và trở thành những nhân vật chủ chốt vận động
cho việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cho việc phát triển
giáo dục ở Việt Nam mà Chương trình Học bổng Fulbright và Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright là hai thành quả cụ thể. Trong thời gian là Thượng nghị sỹ,
Bob Kerrey cũng là người bảo trợ cho đạo luật hình thành nên Quỹ Giáo dục Việt
Nam (VEF), tạo cơ hội cho khoảng 500 nghiên cứu sinh Việt Nam sang Mỹ du học
trong các ngành khoa học, toán học, y học, công nghệ và kỹ thuật.
Trong “bộ ba” này, người Việt Nam chủ yếu chỉ biết đến
“hai ông John”. Chẳng mấy ai, kể cả nhiều người được nhận học bổng do Bob
Kerrey góp phần tạo ra, biết đến ông cho đến khi ông được Quỹ Tín thác Sáng kiến
Đại học Việt Nam (TUIV) mời làm Chủ tịch HĐQT FUV. Người đàn ông này lặng lẽ cống
hiến cho sự hàn gắn vết thương chiến tranh trong quá khứ và xây dựng nền tảng
cho tương lai ở đất nước ông từng gây đau thương chết chóc.
Động lực nào khiến ông nhận lời mời làm Chủ tịch
FUV, nhất là ở cái tuổi ngoài 70 này? Vì danh ư? Chắc chắn là không vì danh vọng
ông không thiếu. Vì lợi ư? Lại càng không vì ông không nhận một đồng lương bổng
nào từ FUV. Dần dần, tôi hiểu ra rằng với ông, đây là dự án lớn cuối cùng mà
ông có thể cống hiến cho Việt Nam, là nỗ lực sám hối tha thiết cuối cùng cho những
vết thương ông đã để lại ở Việt Nam.
Đối với Kerrey, việc trở về Việt Nam trong dự án FUV
hẳn là một quyết định khó khăn. Lần cuối cùng Kerrey trở lại Việt Nam là cuối
thập niên 1990, khi sứ mệnh bình thường hóa quan hệ đã hoàn thành. Khi quyết định
trở lại một lần nữa, chắc chắn ông biết rằng mình sẽ lại phải đối diện với quá
khứ đầy đau đớn. Một lần nữa, ông phải gánh chịu những lời kết án cho những tội
ác của mình gây ra gần nửa thế kỷ trước. Nhưng với ông, việc chịu đựng những lời
kết án hay thậm chí là cái chết có khi còn nhẹ nhàng hơn việc phải đối diện với
những ký ức đầy ám ảnh, dày vò tâm khảm ông vĩnh viễn kể từ cái đêm ở Thạnh
Phong năm 1969.
Với tâm thế ấy, cũng như trước đây, ông luôn nhẫn nhịn
chịu đựng, không một lời thanh minh, không một lời bào chữa, mà chỉ kiên trì
theo đuổi tâm nguyện của mình. Bởi vì ông hiểu rằng mặc dù không ai có thể sửa
được quá khứ, nhưng với sự lựa chọn của mình, chúng ta có thể thay đổi tương
lai.
Có thể có người cho rằng sự trở lại của Kerrey trong
Dự án FUV đã khơi lại vết thương quá khứ của nhiều người Việt Nam. Nhưng cũng
nên thấy rằng, với quyết định của mình, Kerrey là người đầu tiên phải chịu đựng
những đớn đau, dằn vặt tinh thần. Ông đã không chọn con đường trốn tránh quá khứ,
vốn dễ dàng hơn cho ông rất nhiều. Trái lại, ông dũng cảm chấp nhận đối diện với
nỗi đau của mình, và vượt qua nó bằng sự nhẫn nhịn, bền bỉ, và hơn hết, bằng những
hành động thiết thực hướng tới tương lai.
Sự sám hối của Kerrey là chân thành, khát khao cống
hiến của Kerrey cho giáo dục Việt Nam là chân thực. Quá khứ không thể thay
đổi được, nhưng với tấm lòng thành thực và sự cảm thông, chúng ta có thể cùng
nhau xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
(*) Tiêu đề do Dân Làm Báo đặt.
-------------------------------------
Nhân trường hợp Ông Bob Kerrey, cựu thượng nghị sỹ
bang Nebraska (1989 – 2001), cựu Chủ tịch Trường ĐH The New School (New York)
(2001-2010), người đã từng tham chiến tại Việt Nam những năm 1975 được cân nhắc
giữ chức Chủ tịch Hội đồng tín thác Trường ĐH Fulbright VN (FUV) gây nhiều
tranh cãi trong dư luận. Người ta có dịp nhìn lại sự vị tha của người Việt sau
chiến tranh.
Cựu thượng nghị sỹ Bob Kerry bị phản đối khi được giữ
đề cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng tín thác Fulbirght Việt Nam vì đã từng từng
tham gia chiến tranh VN với tư cách sĩ quan mang hàm trung úy trong lực lượng đặc
nhiệm SEAL của hải quân Mỹ.
Ông Kerrey chính là người chỉ huy đội biệt kích SEAL
tiến hành vụ thảm sát ngày 25.2.1969 ở xã Thạnh Phong thuộc H.Thạnh Phú, Bến
Tre, khiến trên 20 dân thường thiệt mạng. Ông Kerrey đã nhận trách nhiệm về vụ
thảm sát khi trả lời phỏng vấn báo The New York Times.
Trong số những người phản đối ông Bob Kerrey, có bà
Tôn Nữ Thị Ninh, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh Liên minh
châu Âu (EU) và tại Bỉ, cựu Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam.
Bà Ninh cho rằng: “Tôi nghĩ, không cần chần chừ
hơn nữa, nếu ông (Bob Kerry) rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn
sàng” thì cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao.
Thiết nghĩ, nhiều người Mỹ sẽ đồng tình với quyết định đó của ông.
Nếu phía Mỹ khăng khăng giữ quyết định của mình, thì
đối với tôi, không còn có thể coi đây là một dự án chung như nhóm sáng lập vẫn
khẳng định. Vì rằng như trong một cuộc hôn nhân, hai bên cần phải lắng nghe,
tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của nhau.” (1)
Nghe bà Ninh nói về sự tự trọng rất hay, nhưng có lẽ
ít người biết rằng trong buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ, hồi
tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam,
bà Ninh đã trả lời:
“Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu
hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên
là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi
xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”.
Phát ngôn của một đại sứ khi nói về những người
tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam như trên liệu có đủ tư cách nói
về “sự tự trọng”?
Khi chiến tranh đi qua, ngoài các vết thương thân thể
đã lành, các bên tham chiến đều giữ lại trong lòng những nỗi đau khác nhau. Người
thì ân hận, kẻ ôm hận thù.
Ở Việt Nam, sự hận thù ấy được nuôi dưỡng có tổ chức
từ giáo dục tới hệ thống tuyên truyền nhan nhản hàng ngày.
Cũng là chiến tranh, nhưng những người như bà Tôn Nữ
Thị Ninh có thể im lặng, câm mồm trước thảm sát biên giới phía Bắc 1979, trước
thảm sát Gạc Ma 1988… Vì quyền lợi và vì các đồng chí của bà đã quán triệt tư
tưởng 16 vàng 4 tốt rất triệt để.
Hãy nghe Bob Kerry nói về chuyện đã qua và cách mà
ông ta sửa sai trong suốt quá trình vận động cho quỹ Fulbright hơn chục năm
nay:
Trả lời Financial Times, ông Bob Kerrey cho biết:
"Tôi đã đối mặt với quá khứ một cách trực diện và thành thật. Tôi đã
gây ra những điều kinh khủng và tôi sẽ phải sống chung với tội lỗi này suốt cả
cuộc đời. Nhưng tôi không muốn chìm đắm trong quá khứ. Tôi vẫn tiếp tục vươn
lên và cố gắng làm những điều có thể giúp đỡ Việt Nam để xây dựng tương lai tốt
hơn". (2)
Nói về sự vị tha và lòng tự trọng của người Việt, hãy
nhìn cách bà Tôn Nữ Thị Ninh và đồng đảng của bà đã làm với chính đồng bào mình
sau cuộc chiến 1975 đến nay để hiểu tinh thần hòa hợp, hòa giải hướng tới tương
lai mà họ kêu gọi là gì.
Không nhắc tội Trung Cộng, nhưng ra rả kể tội Mỹ và
chứng minh chân lý thuộc về Việt Nam là phương thức xưa giờ đảng Cộng sản đã chọn.
Chú
thích:
(1) http://thanhnien.vn/giao-duc/ong-bob-kerrey-khong-nen-lam-lanh-dao-fulbright-viet-nam-709527.html
----------------------
No comments:
Post a Comment