Friday, June 3, 2016

BOB KERREY - PHÉP THỬ CHO LỜI KÊU GỌI HÒA GIẢI CỦA VIỆT NAM (Vũ Thành Tự Anh)






Mấy ngày nay, nhiều người hỏi tôi ủng hộ hay phản đối việc Bob Kerrey – cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – giữ vai trò Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Đại học Fulbright Việt Nam (FUV). Để trả lời câu hỏi này, tôi sẽ kể lại hành trình nhận thức của mình về Bob Kerrey.

Hơn nửa năm trước, khi biết Bob Kerrey được mời làm Chủ tịch HĐQT của FUV, phản ứng đầu tiên của tôi là phản đối. Lý do rất đơn giản và hiển nhiên: Tội ác kinh khủng ông gây ra trong cuộc tàn sát ở Thạnh Phong năm 1969 tương phản và làm vấy bẩn sứ mệnh cao đẹp của Trường Đại học Fulbright Việt Nam. 

Nhưng khi hiểu thêm về Bob Kerrey, những điều ông nói và những việc ông làm, đồng thời được nghe kể nhiều câu chuyện đầy éo le và bi kịch từ cựu chiến binh ở cả hai phía, tôi đã nhận ra ở Kerrey một con người khác, thoát xác từ chính đại úy biệt kích SEAL trước đây.

Trong suốt hơn một phần tư thế kỷ trở lại đây, “bộ ba thượng nghị sỹ” John Kerry, John McCain và Bob Kerrey cũng như nhiều cựu chiến binh khác đã nỗ lực không mệt mỏi và trở thành những nhân vật chủ chốt vận động cho việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cho việc phát triển giáo dục ở Việt Nam mà Chương trình Học bổng Fulbright và Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright là hai thành quả cụ thể. Trong thời gian là Thượng nghị sỹ, Bob Kerrey cũng là người bảo trợ cho đạo luật hình thành nên Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF), tạo cơ hội cho khoảng 500 nghiên cứu sinh Việt Nam sang Mỹ du học trong các ngành khoa học, toán học, y học, công nghệ và kỹ thuật. 

Trong “bộ ba” này, người Việt Nam chủ yếu chỉ biết đến “hai ông John”. Chẳng mấy ai, kể cả nhiều người được nhận học bổng do Bob Kerrey góp phần tạo ra, biết đến ông cho đến khi ông được Quỹ Tín thác Sáng kiến Đại học Việt Nam (TUIV) mời làm Chủ tịch HĐQT FUV. Người đàn ông này lặng lẽ cống hiến cho sự hàn gắn vết thương chiến tranh trong quá khứ và xây dựng nền tảng cho tương lai ở đất nước ông từng gây đau thương chết chóc. 

Động lực nào khiến ông nhận lời mời làm Chủ tịch FUV, nhất là ở cái tuổi ngoài 70 này? Vì danh ư? Chắc chắn là không vì danh vọng ông không thiếu. Vì lợi ư? Lại càng không vì ông không nhận một đồng lương bổng nào từ FUV. Dần dần, tôi hiểu ra rằng với ông, đây là dự án lớn cuối cùng mà ông có thể cống hiến cho Việt Nam, là nỗ lực sám hối tha thiết cuối cùng cho những vết thương ông đã để lại ở Việt Nam. 

Đối với Kerrey, việc trở về Việt Nam trong dự án FUV hẳn là một quyết định khó khăn. Lần cuối cùng Kerrey trở lại Việt Nam là cuối thập niên 1990, khi sứ mệnh bình thường hóa quan hệ đã hoàn thành. Khi quyết định trở lại một lần nữa, chắc chắn ông biết rằng mình sẽ lại phải đối diện với quá khứ đầy đau đớn. Một lần nữa, ông phải gánh chịu những lời kết án cho những tội ác của mình gây ra gần nửa thế kỷ trước. Nhưng với ông, việc chịu đựng những lời kết án hay thậm chí là cái chết có khi còn nhẹ nhàng hơn việc phải đối diện với những ký ức đầy ám ảnh, dày vò tâm khảm ông vĩnh viễn kể từ cái đêm ở Thạnh Phong năm 1969. 

Với tâm thế ấy, cũng như trước đây, ông luôn nhẫn nhịn chịu đựng, không một lời thanh minh, không một lời bào chữa, mà chỉ kiên trì theo đuổi tâm nguyện của mình. Bởi vì ông hiểu rằng mặc dù không ai có thể sửa được quá khứ, nhưng với sự lựa chọn của mình, chúng ta có thể thay đổi tương lai. 

Có thể có người cho rằng sự trở lại của Kerrey trong Dự án FUV đã khơi lại vết thương quá khứ của nhiều người Việt Nam. Nhưng cũng nên thấy rằng, với quyết định của mình, Kerrey là người đầu tiên phải chịu đựng những đớn đau, dằn vặt tinh thần. Ông đã không chọn con đường trốn tránh quá khứ, vốn dễ dàng hơn cho ông rất nhiều. Trái lại, ông dũng cảm chấp nhận đối diện với nỗi đau của mình, và vượt qua nó bằng sự nhẫn nhịn, bền bỉ, và hơn hết, bằng những hành động thiết thực hướng tới tương lai.

Sự sám hối của Kerrey là chân thành, khát khao cống hiến của Kerrey cho giáo dục Việt Nam là chân thực. Quá khứ không thể thay đổi được, nhưng với tấm lòng thành thực và sự cảm thông, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

(*) Tiêu đề do Dân Làm Báo đặt.





-------------------------------------


Nhân trường hợp Ông Bob Kerrey, cựu thượng nghị sỹ bang Nebraska (1989 – 2001), cựu Chủ tịch Trường ĐH The New School (New York) (2001-2010), người đã từng tham chiến tại Việt Nam những năm 1975 được cân nhắc giữ chức Chủ tịch Hội đồng tín thác Trường ĐH Fulbright VN (FUV) gây nhiều tranh cãi trong dư luận. Người ta có dịp nhìn lại sự vị tha của người Việt sau chiến tranh.

Cựu thượng nghị sỹ Bob Kerry bị phản đối khi được giữ đề cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng tín thác Fulbirght Việt Nam vì đã từng từng tham gia chiến tranh VN với tư cách sĩ quan mang hàm trung úy trong lực lượng đặc nhiệm SEAL của hải quân Mỹ.

Ông Kerrey chính là người chỉ huy đội biệt kích SEAL tiến hành vụ thảm sát ngày 25.2.1969 ở xã Thạnh Phong thuộc H.Thạnh Phú, Bến Tre, khiến trên 20 dân thường thiệt mạng. Ông Kerrey đã nhận trách nhiệm về vụ thảm sát khi trả lời phỏng vấn báo The New York Times.

Trong số những người phản đối ông Bob Kerrey, có bà Tôn Nữ Thị Ninh, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu (EU) và tại Bỉ, cựu Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam.

Bà Ninh cho rằng: “Tôi nghĩ, không cần chần chừ hơn nữa, nếu ông (Bob Kerry) rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn sàng” thì cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao. Thiết nghĩ, nhiều người Mỹ sẽ đồng tình với quyết định đó của ông.

Nếu phía Mỹ khăng khăng giữ quyết định của mình, thì đối với tôi, không còn có thể coi đây là một dự án chung như nhóm sáng lập vẫn khẳng định. Vì rằng như trong một cuộc hôn nhân, hai bên cần phải lắng nghe, tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của nhau.” (1) 

Nghe bà Ninh nói về sự tự trọng rất hay, nhưng có lẽ ít người biết rằng trong buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ, hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, bà Ninh đã trả lời:

Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”.

Phát ngôn của một đại sứ khi nói về những người tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam như trên liệu có đủ tư cách nói về “sự tự trọng”?

Khi chiến tranh đi qua, ngoài các vết thương thân thể đã lành, các bên tham chiến đều giữ lại trong lòng những nỗi đau khác nhau. Người thì ân hận, kẻ ôm hận thù. 

Ở Việt Nam, sự hận thù ấy được nuôi dưỡng có tổ chức từ giáo dục tới hệ thống tuyên truyền nhan nhản hàng ngày.

Cũng là chiến tranh, nhưng những người như bà Tôn Nữ Thị Ninh có thể im lặng, câm mồm trước thảm sát biên giới phía Bắc 1979, trước thảm sát Gạc Ma 1988… Vì quyền lợi và vì các đồng chí của bà đã quán triệt tư tưởng 16 vàng 4 tốt rất triệt để.

Hãy nghe Bob Kerry nói về chuyện đã qua và cách mà ông ta sửa sai trong suốt quá trình vận động cho quỹ Fulbright hơn chục năm nay: 

Trả lời Financial Times, ông Bob Kerrey cho biết: "Tôi đã đối mặt với quá khứ một cách trực diện và thành thật. Tôi đã gây ra những điều kinh khủng và tôi sẽ phải sống chung với tội lỗi này suốt cả cuộc đời. Nhưng tôi không muốn chìm đắm trong quá khứ. Tôi vẫn tiếp tục vươn lên và cố gắng làm những điều có thể giúp đỡ Việt Nam để xây dựng tương lai tốt hơn". (2)

Nói về sự vị tha và lòng tự trọng của người Việt, hãy nhìn cách bà Tôn Nữ Thị Ninh và đồng đảng của bà đã làm với chính đồng bào mình sau cuộc chiến 1975 đến nay để hiểu tinh thần hòa hợp, hòa giải hướng tới tương lai mà họ kêu gọi là gì.

Không nhắc tội Trung Cộng, nhưng ra rả kể tội Mỹ và chứng minh chân lý thuộc về Việt Nam là phương thức xưa giờ đảng Cộng sản đã chọn.



Chú thích:


----------------------









No comments:

Post a Comment