Moisés Naím, The Atlantic
Nguyễn
Huy Hoàng biên dịch
Posted on Jun 24, 2016
Các cuộc biểu tình đường phố đang thịnh hành. Từ
Bangkok đến Caracas, từ Madrid đến Moskva, những ngày này không có tuần nào
trôi qua mà không có tin tức về một đám đông lớn tập hợp trên đường phố của những
thành phố lớn trên thế giới. Có nhiều lý do để biểu tình (hệ thống giao thông
công cộng và giáo dục chất lượng kém và đắt đỏ, kế hoạch san bằng một công
viên, tình trạng lạm quyền của cảnh sát…). Thông thường, cơn bất bình nhanh
chóng lan rộng sang việc phủ nhận chính phủ, hoặc người đứng đầu cơ quan này,
hoặc đến những tố cáo rộng hơn về tham nhũng và bất bình đẳng kinh tế.
Hình ảnh chụp từ trên không các cuộc diễu hành chống
chính phủ thường cho thấy một biển người giận dữ đòi hỏi sự thay đổi. Nhưng những
gì mà những đám đông này đạt được lại ít đến đáng ngạc nhiên. Nguồn năng lượng
chính trị dồi dào trên thực địa cực kỳ không tương xứng với những kết quả thực
tế của các cuộc biểu tình này.
Dĩ nhiên đã có những ngoại lệ đáng chú ý: Ở Ai Cập,
Tusinia, và Ukraina, các cuộc biểu tình đường phố đã thực sự góp phần vào việc
lật đổ chính phủ. Nhưng các cuộc biểu tình lớn nhất đã không tạo ra được những
sự thay đổi đáng kể trong nền chính trị hoặc chính sách công. Phong trào Chiếm
đóng phố Wall là một ví dụ điển hình. Ra đời vào mùa hè năm 2011 (không phải ở
phố Wall mà ở Quảng trường Merdeka ở Kuala Lumpur), phong trào Chiếm đóng nhanh
chóng lan rộng và sớm phổ biến tại gần 2.600 thành phố trên khắp thế giới.
“Occupy Wall
street” trên cầu Brooklyn
Các nhóm khác nhau tham gia biểu tình đã không có
liên kết chính thức với nhau, không có hệ thống phân cấp rõ ràng, và hiển nhiên
không có nhà lãnh đạo. Nhưng các mạng lưới xã hội đã giúp tái tạo phong trào
trên diện rộng đến mức các mô hình cơ bản như cắm trại, biểu tình, gây quỹ,
truyền thông, và tương tác với chính quyền đã trở nên tương đồng từ nơi này đến
nơi khác. Cùng một thông điệp vang vọng ở mọi nơi: Không thể chấp nhận được việc
tài sản toàn cầu tập trung trong tay của nhóm tinh hoa 1% trong khi 99% còn lại
gần như chỉ có thể đủ sống.
Đáng lẽ một sáng kiến toàn cầu, rộng lớn, có vẻ được
tổ chức tốt như vậy phải có tác động lớn hơn. Nhưng không phải. Mặc dù chủ đề bất
bình đẳng kinh tế đã thu hút nhiều chú ý trong những năm sau đó, trên thực tế
chúng ta khó mà tìm được những thay đổi có ý nghĩa trong chính sách công dựa
trên những đề xuất của phong trào Chiếm đóng. Rốt cuộc phong trào Chiếm đóng giờ
đã biến mất khỏi các tít báo.
Trên thực tế, phản ứng của chính phủ thường chỉ là
những nhượng bộ đãi bôi, và chắc chắn không có những cải cách chính trị lớn. Ví
dụ, Tổng thống Brazil Dilma Roussef đã công khai thừa nhận những vấn đề gây nên
sự thất vọng của người chiếm đóng đường phố của đất nước bà, và hứa hẹn sự thay
đổi sẽ được thực hiện, nhưng những “sự thay đổi” ấy vẫn chưa trở thành hiện thực.
Phản ứng của Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đối với các cuộc biểu
tình trong đất nước ông còn quyết liệt hơn. Ông cáo buộc phe đối lập và những
người biểu tình có âm mưu tinh vi chống lại mình, và cố gắng chặn Twitter và
YouTube. Đầu tháng này, Erdogan đã giành chiến thắng lớn trong các cuộc bầu cử
địa phương của Thổ Nhĩ Kỳ. Tình hình tương tự cũng đã diễn ra trong các cuộc biểu
tình phản đối bạo lực ở Mexico City và tham nhũng ở New Delhi: tuần hành lớn, kết
quả nhỏ.
Tại sao? Làm thế nào những người có động lực rất lớn
lại đạt được rất ít? Có thể nhận ra một câu trả lời trong kết quả của cuộc thí
nghiệm do Anders Colding-Jørgensen tại Đại học Copenhagen tiến hành. Năm 2009,
ông lập ra một nhóm Facebook để phản đối việc phá dỡ di tích lịch sử Đài phun
nước con Cò (Stork Fountain) trên quảng trường chính của thủ đô Đan Mạch. Mười
ngàn người đã tham gia trong tuần đầu tiên; sau hai tuần, nhóm lớn mạnh đến
27.000 thành viên. Đó là phạm vi của thí nghiệm này. Chưa bao giờ có kế hoạch
nào trên thực tế để phá hủy Đài phun nước—Colding-Jørgensen chỉ đơn thuần là muốn
thể hiện việc tạo ra một nhóm người dùng mạng xã hội tương đối lớn dễ dàng như
thế nào.
Trong thế giới ngày nay, chắc chắn lời kêu gọi biểu
tình qua Twitter, Facebook, hoặc tin nhắn sẽ thu hút được một đám đông, nhất là
nếu kêu gọi biểu tình phản đối một điều gì đó—thật ra là bất cứ điều gì—xúc phạm
đến chúng ta. Vấn đề là những gì diễn ra sau cuộc diễu hành. Đôi khi nó kết
thúc trong cuộc đối đầu bạo lực với cảnh sát, nhưng thông thường là nó chỉ đơn
giản tắt dần đi. Đằng sau các cuộc biểu tình đường phố hiếm khi có một tổ chức
thường trực và hiệu quả, có khả năng giám sát những đòi hỏi của người biểu tình
và tiến hành công việc chính trị phức tạp, trực diện, và buồn tẻ, tạo ra sự
thay đổi thực sự trong chính phủ.
Đó là luận điểm quan trọng được đưa ra bởi Zeynep
Tufekci, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Chính sách Công nghệ Thông tin thuộc
Đại học Princeton. Theo bà, “Trước khi có Internet, công việc tổ chức tẻ nhạt vốn
cần thiết để phá vỡ sự kiểm duyệt hoặc tổ chức một cuộc biểu tình cũng giúp xây
dựng cơ sở hạ tầng cho quá trình ra quyết định và những chiến lược nhằm duy trì
động lực phong trào. Giờ thì các phong trào có thể vội vàng bỏ qua bước này,
thường gây hại cho chính mình.”
Có một động cơ chính trị mạnh mẽ đang vận hành trên
đường phố của nhiều thành phố. Nó quay với tốc độ cao và tạo ra nhiều năng lượng
chính trị. Nhưng động cơ này không được kết nối với bánh xe, và do đó “phong
trào” không thể di chuyển. Muốn di chuyển thì cần có những tổ chức có khả năng
làm công việc chính trị truyền thống và thường trực, có thể đưa các cuộc
biểu tình đường phố thành thay đổi chính trị và cải cách chính sách. Trong phần
lớn trường hợp, điều đó đồng nghĩa với các đảng chính trị. Nhưng các đảng chính
trị hiện có mà người biểu tình không tin tưởng không nhất thiết phải là những
tác nhân thay đổi. Thay vào đó, chúng ta cần những đảng mới hoặc những đảng cải
cách sâu rộng, có thể tiếp sinh lực cho cả những người lý tưởng chủ nghĩa vốn cảm
thấy không nơi bấu víu về mặt chính trị và cả những chuyên gia đang hằng ngày cống
hiến cho công việc xây dựng một tổ chức chính trị biết cách biến năng lượng
chính trị thành các chính sách công.
Như nhiều người đã chú ý, mạng xã hội vừa có thể tạo
điều kiện vừa có thể làm suy yếu sự hình thành của các đảng chính trị hiệu quả.
Chúng ta đã quen với sức mạnh của truyền thông xã hội để xác định, thu hút, huy
động, và phối hợp những người ủng hộ cũng như để gây quỹ. Nhưng chúng ta cũng
biết phong trào hoạt động qua những cái click chuột và ủng hộ cho có
(clicktivism/slacktivism) sẽ làm suy yếu hoạt động chính trị thực sự bằng cách
tạo ra ảo giác gây cảm giác tốt đẹp rằng việc bấm “like” trên một trang
Facebook hoặc tweet những thông điệp sôi nổi một cách dễ dàng trên máy tính hay
điện thoại thông minh cũng tương đương với phong trào hoạt động thực sự ảnh hưởng
đến sự thay đổi.
Những gì chúng ta đang chứng kiến trong những năm gần
đây là sự phổ biến của các cuộc tuần hành đường phố mà không có một kế hoạch
nào cho những gì sẽ diễn ra tiếp theo và làm thế nào để tiếp tục giữ những người
biểu tình tham gia và hội nhập vào tiến trình chính trị. Đó chỉ là biểu hiện mới
nhất của cơn ảo tưởng nguy hiểm rằng có thể có dân chủ mà không cần các đảng
chính trị—và ảo tưởng rằng các cuộc biểu tình đường phố dựa nhiều vào mạng xã hội
hơn vào tổ chức chính trị bền vững là cách thức để thay đổi xã hội. ♦
_______
Moisés Naím, cựu bộ trưởng thương mại và công nghiệp
của Venezuela và giám đốc điều hành của Ngân hàng Thế giới, là tác giả của cuốn
The End of Power (Basic Books, 2013). Năm 2014 và
2015, ông được Viện Gottlieb Duttweiler xếp trong danh sách 100 nhà lãnh đạo tư
tưởng toàn cầu có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
Trích từ trang
Nguyễn Huy Hoàng / Bản dịch này được đăng lần đầu trên NCQT.
No comments:
Post a Comment