Sunday, December 14, 2025

THẾ NÀO LÀ “HIỀN TÀI” (Quốc Ấn Mai / Facebook)

 



THẾ NÀO LÀ “HIỀN TÀI”

Quốc Ấn Mai

14-12-2025  08:25   

https://www.facebook.com/quocan.mai/posts/pfbid033rb3xXCZpYTh1Mbr2EC4TdaqfGWBUn4fz7vSefeHg3hC7MZfBLai9HNjuarNVCXol

 

THẾ NÀO LÀ “HIỀN TÀI”

 

Người xưa dạy: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. TPHCM hôm nay cần “làm ưu tiên” cho hiền tài.

 

Nhưng như thế nào mới là hiền tài?

 

Chữ HIỀN đi trước chữ TÀI. Vì nếu có tài mà ác thì có lẽ sẽ dẫn đến nhiều hậu quả. Nhưng HIỀN là một tính từ, và tianh từ thì không định lượng được như TÀI…

 

TÀI, muốn định lượng không khó! Sáng tạo ra một sản phẩm, nghiên cứu ra một ứng dụng khoa học thuần túy chứng minh bằng số liệu. Điện thoại Oppo có thể copy y chang điện thoại Apple về hình thức nhưng cốt lõi nó vẫn xài hệ điều hành Android như nhiều điện thoại khác chứ không có giá trị cốt lõi về hệ điều hành IOS như điện thoại Apple.

 

Tôi làm gạch ép tĩnh khoa học công nghệ, mỗi viên gạch nhẹ hơn 10-55% so với gạch ép rung, các chỉ tiêu về độ cứng, độ ẩm, độ xuyên nước, độ chống cháy đều vượt trội hơn. Mọi thứ chứng minh bằng số liệu test kiểm định hết. Đại loại vậy…

 

Tôi hiểu rất đơn giản về TÀI trong lĩnh vực nhà nước cần là tính tiết kiệm đối với ngân sách, tác động tốt đối với xã hội, giúp nhà nước tăng trưởng xanh khi giảm CO2 vì đã ký cam kết với quốc tế,… Những thứ này hoàn toàn có thể định lượng được và có rất nhiều người TÀI có thể làm được tốt hơn so với những cách làm cũ giao cho độc quyền nhà nước hay giao cho những “sân sau” kiểu “con anh Sáu, cháu chú Ba, người nhà dì Tám”.

 

Người TÀI ở Việt Nam có nhiều, khái quát lại trong câu “cao thủ như mây” là không quá đáng. Nhưng người TÀI ở Việt Nam chưa được trọng dụng cũng nhiều. Nói thẳng là do cơ chế! Một cơ chế chưa sòng phẳng với những định lượng cụ thể để nhận diện người TÀI, trọng dụng người TÀI. Ví dụ lương cao hơn 100-300% để thu hút người TÀI nhưng đó là cao hơn lương cơ bản cỡ 6 triệu/tháng thì chỉ cỡ 12-18 triệu/tháng làm sao hút người TÀI đang hưởng lương 120.000-180.000USD/tháng?

 

Báo PLTP viết bài về “làn ưu tiên” cho người TÀI với sự khẳng định “TPHCM cần…” là chính xác. Vì ngoài 4 Nghị quyết 57, 59, 66, 68 của Đảng và Nghị quyết 193 của Quốc hội về cơ chế phát triển khoa học công nghệ, đổi mới thể chế thì TPHCM còn có riêng Nghị quyết 193 về cơ chế đặc thù phát triển TPHCM. Đã có cơ chế riêng thì những rào cản thu hút người TÀI đã lĩnh vực hoàn toàn có thể thực hiện.

 

Nhưng…

 

Học sinh tiểu học thì không thể giao đánh giá tiến sĩ. Tiến sĩ giấy thì càng không nên giao đánh giá người có sáng chế. “Bất lương mà bàn luận chuyện hiền lương” là phi chính danh. Để “thơ quốc doanh cười cợt thơ Đường” trong lĩnh vực cần định lượng cụ thể như tiết kiệm ngân sách và tác động xã hội chỉ mang lại trì trệ quốc gia.

 

Nhà nước có công cụ để chính danh việc mời và trọng dụng người TẦI. Đó là cần mà chưa đủ! Còn phải có một không gian tự do về mặt tư tưởng, học thuật, nghiên cứu, ứng dụng cho người tài sáng tạo. Mời nhân tài về để bàn chuyện đưa xúc xích về lại thành con bò là việc của con bò, không phải việc của nhà quản lý.

 

Còn về chữ HIỀN trong khái niệm HIỀN TÀI thì cứ cởi mở hết thông tin về công việc của người TÀI để nhân dân đánh giá. Vì nhiều khi HIỀN TÀI cần không HIỀN theo ý ai để còn tồn tại và không rơi vào cảnh “về thế giới người hiền gặp cụ Mác, cụ Lenin” sớm, theo nghĩa đen.

 

Đừng nướng hiền tài trên ngọn lửa chính sách, đừng vùi hiền tài dưới hầm tâm tư cá nhân, là được!

 

P/s: Bài viết trên báo PLTP có ở comment có nhấn mạnh về “làm ưu tiên” cho hiền tài có khái niệm “hợp hiến, hợp pháp và khả thi” rất thú vị.

https://www.facebook.com/photo?fbid=10229234589561813&set=a.2817432207462

 

19 BÌNH LUẬN 

 

 

 



BỘ ĐỘI SAO THA HÓA THẾ? (Trần Quốc Quân / Báo Tiếng Dân)

 



Bộ đội sao tha hóa thế?

Trần Quốc Quân

14/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/14/bo-doi-sao-tha-hoa-the/

 

HÌNH :  https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/3-8.jpg

              Ảnh tác giả khi còn là lính Quân khu Thủ Đô. Nguồn: Trần Quốc Quân

 

Gia đình tôi có sáu đàn ông thì năm người từng tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong đó có Ba tôi cùng ba anh trai là sĩ quan cả đời binh nghiệp, chỉ mỗi tôi làm lính nghĩa vụ ba năm.

 

 

Cuối năm 1980, sau khi tốt nghiệp đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội chưa đầy năm, tôi bị tổng động viên đánh Tàu. Tôi nhập ngũ từ cơ quan Tổng cục Thống kê ở 6B Hoàng Diệu, Hà Nội cùng với bọn lính trẻ thực hiện nghĩa vụ quân sự từ các phường Phúc Xá, Nghĩa Dũng, An Dương… ngoài bãi đê Sông Hồng.

 

Tiểu đoàn 1, trung Đoàn 786, sư đoàn 321, Quân khu Thủ đô của tôi có hai thái cực đối lập giữa lính cơ quan trung ương có trụ sở tại quận Ba Đình với bọn lính du thủ du thực, cầu bơ cầu bất bán nước, móc túi ở bến Nứa ngay đầu cầu Long Biên cũng thuộc quận Ba Đình.

 

Lính đại đội 1 của tôi hầm bà làng, từ những thằng ‘trí thức’ như tôi, tới mấy thằng mù chữ. Mỗi lần cần ký gì, bọn chưa từng đến trường đều phải lăn tay và khi tập “bước đều bước” thì dứt khoát bọn đấy phải giơ chân và tay cùng bên, không thể nào sửa được.

 

Bọn lính tân binh bắt từ các phường ở đại đội tôi tuổi chỉ khoảng mười tám đôi mươi, toàn đầu gấu lưu manh. Chỉ huy đại đội, tiểu đoàn đánh đập, hành hạ, nhục mạ đủ kiểu mà chúng vẫn cứ “trơ gan cùng tuế nguyệt”.

 

Thứ bảy tuần nào bọn lính trẻ (và cả tôi) cũng trốn ra đường 32 đoạn gần bốt Phùng, Đan Phượng để chặn rồi nhảy lên xe khách về Hà Nội mà lơ xe không dám mở mồm hỏi vé, nếu không muốn bị ăn đòn hội đồng. Tối chủ nhật chúng tôi lại lên đơn vị để tự nguyện chịu kỷ luật từ chỉ huy đại đội. Khi thì bọn lính trẻ phải ôm súng lăn từ mặt đê xuống chân đê vài chục lần. Khi thì bọn lính ít học phải đeo biển trước ngực “Ai cũng như tôi thì mất nước” để trung đội trưởng dong đi khắp làng. Khi thì bọn chúng phải chạy quanh sân kho hợp tác xã 100 vòng, thậm chí còn bị trung đội trưởng nện cho chí mạng bằng báng súng… Ấy vậy mà chả đứa nào sợ, cứ đến thứ bảy lại trốn về Hà Nội thăm nhà, thăm người yêu.

 

Trên xe ca, bọn lính trẻ nghịch phá đủ kiểu. Con gái trên xe bị bỏn cấu, sờ, chỉ thút thít khóc thầm mà xấu hổ không dám kêu to. Các ông, các bà trung niên thỉnh thoảng lại ré lên: “Tiên sư thằng bộ đội nào móc túi của tao”…

 

Một ngày nghỉ cuối tuần, như thường lệ, tôi và đám lính cùng đại đội ra bốt Phùng tràn lên chiếc xe ca Ba Đình vỏ gỉ sét, xộc xệch chạy từ Sơn Tây về Hà Nội. Vì xe quá chật chội nên cửa xe không đóng nổi. Một đám lính trẻ của đại đội tôi đu bám nửa trong, nửa ngoài cửa xe. Khi xe chạy qua Trạm Trôi (Hoài Đức), tôi bỗng nghe từ dưới đường vọng lên một tiếng chửi tục: “Ối! Đ*t mẹ thằng bộ đội”. Ngoái đầu nhìn xuống, tôi thấy một thiếu tá bộ đội hớt hải vừa cố đạp xe đạp đuổi theo chiếc xe khách chở tôi và đồng đội, vừa không ngớt miệng chửi to: “Đ*t mẹ thằng bộ đội! Trả tao cái mũ!”

 

Trên xe ca, mấy thằng lính trẻ cùng đại đội tôi cười hô hố với “chiến lợi phẩm” trong tay là cái mũ dạ tá vừa giật được từ trên đầu viên sĩ quan đang tuyệt vọng nhấn bàn đạp đuổi theo chiếc xe ca với tiếng chửi ngày càng nhỏ dần.

 

Thời tôi nhập ngũ, một bộ phận lính trẻ rất mất dạy. Trung đoàn 786 của tôi chỉ trong ba tháng huấn luyện đã có một số quân nhân bị tước quân tịch, đuổi về địa phương (bị mất gần hết quyền công dân) vì can tội trộm cắp của dân, hoặc lén lút ngủ với con dâu chủ nhà mà chồng cũng là bộ đội đang chiến đấu trên chiến trường Campuchia.

 

Biết chuyện, có nhiều người thắc mắc: Bộ đội sao tha hóa thế? Chẳng chút xấu hổ, bỏn cười nhăn nhở “Bộ đội cụ Hồ đánh Pháp xưa rồi. Bây giờ là bộ đội cụ Duẩn đánh Mỹ đánh Tàu, nhá!“

 

Nhân việc đang có vụ tranh cãi gay gắt về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh vừa được trao giải trong 50 tác phẩm văn học xuất sắc nhất từ năm 1975 đến năm 2025, tôi kể lại những mẩu chuyện rất thật, “mặt trái vinh quang” đang tràn ngập cõi mạng về bộ đội ta “giỏi đánh giặc, nhưng cũng rất phá dân”.

 

 

 


CẬP NHẬT TIẾN ĐỘ KÊNH ĐÀO FUNAN TECHO TỪ THÁNG 5/2023 TỚI THÁNG 12/2025 (Ngô Thế Vinh / Báo Tiếng Dân)

 



Cập nhật tiến độ kênh đào Funan Techo từ tháng 5/2023 tới tháng 12/2025

Ngô Thế Vinh

13/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/13/cap-nhat-tien-do-kenh-dao-funan-techo-tu-thang-5-2023-toi-thang-12-2025/

 

Lời Giới Thiệu của Phạm Phan Long – VEF: Từ tháng 5/2023 đến cuối năm 2025, kênh đào Funan Techo – dự án biểu tượng dân tộc Khmer do hai cha con Hun Sen và Hun Manet quyết liệt thúc đẩy – đã chính thức bước vào giai đoạn thi công thực địa, với sự tái khẳng định tài trợ 1,7 tỷ USD từ Trung Quốc.

 

Kênh đào Funan Techo dài 180 km, lấy nước trực tiếp từ cả hai phân lưu chính của sông Mekong (đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu), con kênh không chỉ khó đạt được mục tiêu rút ngắn lộ trình và giảm chi phí vận tải như Cam Bốt tuyên truyền, mà còn có nguy cơ: (1) Làm suy giảm nghiêm trọng lưu lượng nước mùa khô về hạ lưu, (2) Chặn đứng phù sa, (3) Đẩy nhanh xâm nhập mặn sâu thêm hàng chục kilômét, (4) Đe dọa trực tiếp sinh kế của hơn 20 triệu cư dân Đồng bằng sông Cửu Long.

 

Trong khi Phnom Penh liên tục khẳng định “lợi ích quốc gia thuần túy” và “không ảnh hưởng đáng kể”, thì các phân tích độc lập và Việt Nam lại chỉ ra hàng loạt thiếu sót: Thiếu đánh giá tác động môi trường xuyên biên giới minh bạch, chi phí thực tế có thể vượt xa con số công bố, và rủi ro sinh thái lâu dài chưa được giải quyết thỏa đáng.

 

Bài viết ghi lại hành trình hai năm bảy tháng đầy căng thẳng ngoại giao, nghi ngại kỹ thuật và lo âu môi trường của một dự án đang thay đổi vĩnh viễn số phận dòng Mekong hạ lưu. Tiếng chuông chùa rộn ràng ngày động thổ 5/8/2024 có thực sự là lời chúc phúc cho Cam Bốt, hay đang ngân lên một hồi chuông cảnh tỉnh cho cả lưu vực sông Mekong? 

 

                                                          ***

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-59.jpg

Hình 1:  Trong cuộc hội đàm ngày 16-9-2025 với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (thứ hai từ phải), Phó Thủ tướng Cam Bốt Sun Chanthol (thứ hai từ trái) cho biết, Bắc Kinh tái khẳng định sẽ tiếp tục hỗ trợ tài chính 1,7 tỉ USD cho dự án Kênh đào Funan Techo — tạo cơ sở tài chánh vững chắc để triển khai dự án kênh đào Funan Techo dài 180 km, nối hệ thống sông Mekong–Bassac với Vịnh Thái Lan. Nguồn: The Cambodia Daily, 18.09.2025

 

 

DIỄN TIẾN 2 NĂM 7 THÁNG KÊNH FUNAN TECHO  05/2023 – 12/2025

 

– 19/05/2023: Hai tháng trước khi rời chức Thủ Tướng, ông Hun Sen đã chủ trì một buổi họp nội các đưa ra quyết định về “Dự án Đường Thủy Tonlé Bassac và Hệ Thống Hậu Cần” (The Tonle Bassac Navigation and Logistics System Project) hay còn được gọi là Kênh Funan Techo. Dự án được toàn thể Quốc Hội Cam Bốt thông qua và sau đó, ngày 7/6/2023, Chính phủ Cam Bốt đã quyết định thành lập Ủy Ban Liên Bộ để triển khai dự án Kênh đào Funan Techo.

 

– Ngày 8/8/2023: Chính phủ Cam Bốt đã gửi tới Ban Thư Ký Ủy Hội Sông Mekong MRC một thông báo về “Dự án Kênh đào nội địa Funan Techo” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan Khmer [sic] có từ 500 năm trước Công Nguyên.

 

• Con kênh sẽ kết nối 4 tỉnh Kandal, Takeo, Kampot và Kep nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt cho các cộng đồng cư dân địa phương. Dự án dự trù được khởi công vào cuối năm 2024 và bắt đầu vận hành 2028.

 

• Với những chi tiết kỹ thuật: Kênh di chuyển 2 chiều, có chiều dài 180 km, rộng 100 m phía trên nguồn và 80 m phía dưới nguồn, độ sâu 4 m tới 5,4 m, với 3 âu tàu (shiplocks) với lượng nước xả tối đa 3,6 m

 

• Theo thông báo này, thì ảnh hưởng tiêu cực của dự án là không đáng kể, nhưng đem lại nhiều lợi ích tích cực cho người dân Cam Bốt, như cải thiện mạng lưới thủy vận, kích thích phát triển kinh tế và xã hội, giảm thiểu lũ lụt ở các tỉnh Kandal, Takeo, bảo đảm an toàn lương thực cho cư dân địa phương bằng phát triển nông ngư nghiệp. Dự án kênh Funan Techo này được xem như nằm trong Chiến lược Một Vòng Đai, Một Con Đường / BRI (Belt and Road Initiative) của Trung Quốc, sau khi được một đại công ty Trung Quốc CCCC là China Communications Construction Company nghiên cứu về tính khả thi với kinh phí xây dựng là 1,7 tỷ USD, dự trù do BRI tài trợ.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-60.jpg

Hình 2: Con kênh Funan Techo lấy nước từ cả 2 phân lưu (distributaries) sông Mekong: Mekong Hạ đầu nguồn của Sông Tiền và Sông Bassac là đầu nguồn của Sông Hậu khi chảy vào Việt Nam. Bản đồ của MRC với chi tiết bổ sung bởi Trung Tâm Stimson. 

 

XEM TIẾP >>>>>  

 





GÁNH HÁT QUÊ ĐÃ CŨ và NHỮNG NGỤM NƯỚC BỌT ĐANG PHUN (Nguyễn Hoàng Văn / Báo Tiếng Dân)

 



Gánh hát quê đã cũ và những ngụm nước bọt đang phun

Nguyễn Hoàng Văn

12/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/12/ganh-hat-que-da-cu-va-nhung-ngum-nuoc-bot-dang-phun/

 

Yevgeny Korobov, một trung úy trong quân đội Nga nhưng đã trốn sang Kazakhstan xin tỵ nạn vào năm 2023, vừa mới xuất hiện trên một chương trình truyền hình ở Âu châu, kể lại việc mình và đồng đội thoát khỏi cuộc chiến bằng cách cách tự bắn hay bắn vào nhau để… trở thành thương binh [1].

 

VIDEO :

Masha on Russia: From War Hero to Traitor | ARTE.tv Documentary  

ARTE.tv Documentary

DEC 5, 2025

https://www.youtube.com/watch?v=1F_NxEkriS8

 

Họ làm tôi nhớ lại một “cảnh” trong ca khúc “Đi vào quê hương” của Phạm Duy, phổ từ thơ Hoa Đất Nắng [2]:

 

Tôi vào quê hương quà tặng nhớ đem theo

Một khẩu Thompson hay chiếc súng cộng đồng

Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát

Mỗi đứa một thằng, dành một phát cho nhau.

 

Cái gì đã khiến một quân nhân chuyên nghiệp, đã tốt nghiệp học viện quân sự và từng tham chiến ở Syria, đi đến một chọn lựa như thế? Korobov kể lại việc anh ta thành thật dấn mình vào cuộc chiến với niềm tin tuyệt đối, hoàn toàn tin tưởng vào lời thượng cấp để rồi vỡ mộng, nhận ra mình quá ngu, cứ như một thằng hề và chuyện cũng chẳng khác gì cái “cảnh” trong ca khúc trên:

 

Tôi vào quê hương cùng một gánh hát quê

Ðả đảo hoan hô tôi đứng lên làm hề

Lũ trẻ ngù ngờ cười phun nước miếng

Trên da mặt tôi, trên yếm, trên đầu

 

Tôi muốn nhắc lại câu chuyện của cựu viên trung úy Nga là bởi những cựu trung úy hay trung tướng của chúng ta, trong những cãi cọ liên quan đến “Nỗi buồn chiến tranh”, cũng thế. Cũng thản nhiên phun nước miếng như những thằng hề trong cái thời ăn khách của một gánh hát xưa.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-58-1920x957.jpg

Viên sĩ quan Nga Yevgeny Korobov trong quân phục (ảnh trái) và khi trả lời phỏng vấn “Từ người anh hùng chiến tranh trở thành kẻ phản bội” (giữa), nhà văn Bảo Ninh khi còn trẻ (phải). Ảnh chụp từ video clip và trên mạng/ Tiếng Dân edit

 

Trong nhạc Phạm Duy viết là “gánh hát quê” còn trong thơ, tác giả viết là “cải lương”:

 

Tôi vào quê hương theo đoàn cải lương

Đứng lên làm hề đả đảo hoan hô

Lũ trẻ ngu ngơ cười phun nước bọt

Trên mặt mày tôi, dưới yếm, trên đầu

Tôi vào quê hương mang theo quà tặng

Carbin, Thompson, Garant; tiểu liên

Dành phát cho nhau mỗi thằng mỗi đứa

Dành phát cho nhau mỗi đứa một thằng [3]

 

Nhưng “hát” hay “cải lương” không quan trọng. Điều quan trọng là, dẫu không còn những họng thép nóng bỏng mang tên Carbin, Thompson, Garant hay Kalashnikov, vẫn có những tràng nước bọt mang hình viên đạn để “đả đảo” cái nỗi buồn về cuộc chiến đã kết thúc tới nửa thế kỷ.

 

 

Sao không nhìn vào những người Nga với “nỗi ngán ngẩm chiến tranh”. Trong khi những “gánh hát” của Putin vẫn tiếp tục rêu rao rằng cuộc chiến đó là thiêng liêng thì lính Nga lại nhấp nha nhấp nhổm “Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát” chỉ để vừa thoát ra khỏi cuộc chiến, vừa thủ thân với cái sổ thương binh [4].

Những lính Nga này làm tôi suy nghĩ về những chiến sĩ đang phun nước bọt của chúng ta, họ thực sự đả đảo hoan hô bằng niềm tin của mình, hay chỉ làm thế vì cái sổ hưu đang có hay sẽ có? [5]

 

--------------

Tham khảo:

 

1. “I shot my own men: Russian soldier admits he injured himself and his unit to flee Putin’s war”. https://www.msn.com/en-ie/news/world/i-shot-my-own-men-russian-soldier-admits-he-injured-himself-and-his-unit-to-flee-putin-s-war/ar-AA1S4vzS

 

2. Ca khúc này phổ biến vào đầu thập niên 1970 với tiếng hát Diễm Chi và Khánh Ly, được Phạm Duy xếp vào loại “Tâm phẫn ca”, cùng với những ca khúc như “Tôi không phải là gỗ đá” viết tặng Lê Tất Điều, “Bà mẹ phù sa”, “Bi hài kịch” phổ từ thơ Thái Luân v.v.

 

 

Có thể nghe ca khúc này qua tiếng hát Khánh Ly:

https://www.youtube.com/watch?v=6DTmdTa09ps

Đi Vào Quê Hương , Sáng tác Phạm Duy , Ca sĩ Khánh LyC:\Users\tamho\OneDrive\Desktop\New folder\ https:\www.youtube.com\watch?v=6DTmdTa09ps

Tiếng Xưa

 

1,719 views  Mar 25, 2020

Đi Vào Quê Hương , Sáng tác Phạm Duy , Ca sĩ Khánh Ly

 

Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai

Đồng cỏ cha tôi, tôi trói gô hình hài

Tôi đào thông hào, trồng cây chông nhọn hoắt

Tôi giơ tay cao, tôi cấu tôi cào.

 

Tôi vào quê hương bằng xe traction

Chở mìn clay-mo, plát-tíc đi ngoài đường

Tôi đặt lên sườn Mẹ Việt Nam gầy ốm

Ôi Mẹ tan tành! Ôi Mẹ phanh thân!

 

Tôi vào quê hương bằng dòng nước mắt

Nước mắt vợ chồng, nước mắt cha con

Nước mắt bạn bè, nước mắt anh em

Tôi lội tôi bơi mệt nhoài trong đó

Máu loang từ đầu, chảy xuống ruột mềm.

 

Tôi vào quê hương qua nòng thép súng

Lửa cháy trong làng, lửa cháy trong thôn

Lửa cháy trong lòng, lửa cháy trong tim

Trên da mặt tôi mọc lên cổ thụ

Cổ thụ sai oằn lựu đạn mooc-chiê!

 

Tôi vào quê hương bằng một gánh hát quê

Đả đảo hoan hô tôi đứng lên làm hề

Lũ trẻ ngù ngờ cười phun nước miếng

Trên da mặt tôi, trên yếm, trên đầu.

 

Tôi vào quê hương quà tặng nhớ đem theo

Một khẩu thompson hay chiếc súng cộng đồng

Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát

Mỗi đứa một thằng, dành một phát cho nhau.

 

 

 



BÌNH LUẬN TIN ĐỒN (Dương Quốc Chính / Báo Tiếng Dân)

 



Bình luận tin đồn

Dương Quốc Chính

14/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/14/binh-luan-tin-don/

 

Đầu tiên phải nhắc đến chuyện tưởng chừng không liên quan, nhưng thực tế lại rất liên quan. Đó là hiện tượng anh em bên chuồng [bò] gần đây húc rất khỏe, để “bảo vệ nền tảng tư tưởng”, lấy cớ vậy thôi, chứ bản chất là bảo hoàng hơn vua.

 

“Vua” ở đây được tạm hiểu là lãnh đạo đảng. Lấy cớ bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ, nhưng bản chất chỉ là bảo thủ, không muốn cải cách thể chế, cải cách tư tưởng, nên vu cho sự cải cách là tự diễn biến, tự chuyển hóa. Rồi đem chuyện Liên Xô sụp đổ ra làm con ngáo ộp dọa dân thiện lành, dọa cán bộ công chức. Dọa là mất ổn định, mất chỗ dựa, mất đảng, mất mình.

 

Suy cho cùng, thì tự diễn biến hay xét lại, có tính hai mặt, tùy góc nhìn. Góc tích cực thì chính là cải cách thể chế và tư tưởng. Liên Xô cũng cải cách và Trung Quốc cũng cải cách, đều là tự diễn biến và xét lại hết.

 

Lịch sử cho thấy sự phát triển của loài người chính là sự xét lại liên tục. Vì con người hay loài vật mà có trí tuệ là phải xét lại liên tục, tự diễn biến, tự chuyển hóa liên tục. Vì khôn ra mới biết trước đó chính mình hay ông cha, tiền bối, lãnh tụ đã từng ngu.

 

Thử hỏi, nếu không xét lại thuyết địa tâm thì sao có thuyết nhật tâm? Nếu Khrushchev không xét lại thì sao biết Stalin sai lầm? Đặng Tiểu Bình không xét lại sao biết Mao sai? Gorbachev không cải tổ sao biết Liên Xô từng sai lầm? Mà không biết Liên Xô sai thì sao Đặng có thể sửa sai để có Trung Quốc ngày nay. Nếu đảng ta không nhìn Liên Xô, Trung Quốc để thấy cái sai, cái đúng của họ, bản chất cũng là xét lại của xét lại, thì giờ cũng sập hoặc dặt dẹo như Cuba hay Bắc Triều Tiên.

 

Dù dùng khái niệm khác, là Đổi mới, nhưng bản chất là các ông Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt cũng đã xét lại đường lối kinh tế theo mô hình Liên Xô của ông Lê Duẩn. Cũng là ‘xét lại’ đó, dù về mặt chính trị, Lê Duẩn chống chủ nghĩa xét lại! Về bản chất cái khái niệm đó cũng tương tự, chẳng qua người ta né đi, dùng từ khác cho nó đỡ nhạy cảm. Cải tổ, xét lại, tự diễn biến, hay đổi mới thì đâu có khác nhau về bản chất.

 

Thế nhưng gần đây lại rộ lên việc anh em đỏ phẫn nộ, ý kiến ý cò, chống xét lại lịch sử, bảo vệ nền tảng tư tưởng. Nói như anh em, thì chắc quay lại thời Lê Duẩn anh em mới ưng tuyệt đối! Đổi ngày thành lập đảng từ 6-1 sang 3-2, đổi ngày chết của “bác” từ 3-9 thành 2-9 không là ‘xét lại’ thì là gì?

 

Điều đáng quan tâm, là đứng sau mấy làn sóng phát cuồng này luôn có bóng dáng các chú bộ đội. Bắt đầu từ vụ đấu tố đại học Fulbright, rồi tới Lê Văn Duyệt, Gia Long, rồi giờ là ‘Nỗi buồn chiến tranh’. Tất cả đều nằm trong bối cảnh đấu tranh quyền lực giữa hai bên mà anh em tự hiểu nhé.

 

Mình thấy rằng đây chẳng qua là đá thúng đụng nia, mượn chuyện để khuếch trương thanh thế, một kiểu duyệt binh, diễu võ dương oai về mặt truyền thông. Bên bảo thủ mượn hình ảnh Đại học Fulbright, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Ánh, Bảo Ninh để định hướng dư luận tấn công lại sự cải cách, đổi mới về tư tưởng và quan điểm thân phương Tây hoặc có quan điểm mới.

 

Rõ ràng đứng sau phe bảo thủ thì khá rõ là ai, khá công khai, dựa vào tem nhãn của những người khơi mào. Còn quan điểm đổi mới tất nhiên không hề rõ ràng là có ai hậu thuẫn, kể cả cái ông mà mọi người đang cho là đổi mới, cũng chả dám ra mặt. Nhưng những người lên tiếng đa số là không hề đại diện cho một phe nhóm chính trị nào cụ thể, mà là tiếng nói cá nhân là nhiều. Nói cách khác, thì đó là quần chúng tự phát, nhiều hơn là có sự định hướng chính trị.

 

Phe bảo thủ thì cố bẻ lái là do bọn phản động chống phá, nhưng nói thật là trong chuyện này, về mặt lý luận, anh em phản động số má, cộm cán (đã được công an định danh cá nhân, tổ chức), thì chả có mấy ảnh hưởng, cũng chả đủ năng lực hay đủ tầm ảnh hưởng để làm điều đó. Nhóm lên tiếng phần nhiều là trí thức, chứ chả phản động gì cả, không như bên chuồng cố dán nhãn để định hướng, đó là trò rất mất dạy. Hy vọng là cơ quan chức năng không ngu theo chúng nó.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-57-1012x1024.jpg

Phát biểu của ổng Tô Lâm trong một buổi họp về phòng chống tham nhũng: Không ai được phép vượt quá “lằn ranh đỏ”, nhưng tựa đề các báo đưa ra được mạng xã hội bình luận là ám chỉ của Tô Lâm với “đối thủ”. Ảnh chụp màn hình của Kiên Gốc Sậy

 

Chả nhẽ Đại học Fulbright, chính quyền TP.HCM (cúng giỗ và tái đặt tên đường Lê Văn Duyệt), Bộ Giáo dục, Bộ Văn hoá, Hội Nhà văn (đã vinh danh tác phẩm ‘Nỗi buồn chiến tranh’ và đưa trích đoạn vào sách giáo khoa) đều là phản động cả sao?!

 

Như vậy là đám bảo thủ kia đang muốn quay ngược lại bánh xe lịch sử, đang muốn kéo lùi sự phát triển, cải cách tư tưởng, bằng cách múa may trên mạng xã hội và có lẽ họ càng bất lực khi càng lồng lộn. Vì các cơ quan kia có thèm đáp ứng yêu cầu của họ đâu, đó là cái tát vào mặt phe bảo thủ.

 

Nếu thực sự quân đội đứng sau làn sóng ảo (sóng trên mạng xã hội là ảo thôi, sóng ngoài đời mới là thật), thì phản ứng của xã hội chính là thước đo của lòng dân. Anh em húc ‘Nỗi buồn chiến tranh’ thì nó lại bán chạy, không có mà bán. Chả thấy ai tẩy chay Đại học Fulbright hay ném đá lăng mộ Lê Văn Duyệt, cơ quan chức năng cũng chả để tâm! Thì đó chính là bộc lộ của quyền lực thực tế của mỗi phe trong việc tranh cử đang diễn ra.

 

Theo thông lệ, từ thời bắt đầu có mạng xã hội, internet phát triển, lấy thời điểm xuất hiện trang “Quan làm báo” làm dấu mốc, thì bên nào yếu thế mới chơi âm binh. Giai đoạn trước, khi cụ còn, thì anh H được coi là âm binh, đưa tin “nội bộ”, thì bây giờ mấy anh khác được dùng cách tương tự, chắc do phe kia và có lẽ yếu thế hơn. Anh H giờ tập trung bán kính thôi.

 

Từ các phân tích trên, tự suy được bên nào tung tin đồn mạnh lại là bên yếu thế và có lẽ là sẽ thua. Bên thắng thế cũng chả có nghĩa là tối ưu, chẳng qua là có nhiều lợi thế hơn và biết nương theo xu thế của thời đại không thể đảo ngược được.

 

Nói thực là nếu phe kia lại cũng tỏ ra cải cách, theo một cách khác, thì bọn nhân dân mới thực sự đau đầu. Chứ anh em chọn cách quay ngược bánh xe lịch sử thì quá sai lầm. Bây giờ có lẽ quá muộn để sửa sai và chắc anh em cũng không hề nhận thức được là mình sai ở đâu.

 

Anh em đọc thì động não tí, mình viết tút này là tút thứ hai rồi, vì nhiều người hỏi là có tin gì không? Câu trả lời của mình vẫn kiên định là không biết gì cả đâu!

 





"NGƯỜI VƯỢN - VƯỢN NGƯỜI" (Đặng Thân / Báo Tiếng Dân)

 



“Người vượn — vượn người”

Đặng Thân

13/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/13/nguoi-vuon-vuon-nguoi/  

 

Cái đoạn những người lính Bắc Việt bắn một con vượn to, kéo về, cạo lông ra thì hóa một người đàn bà trong ‘Nỗi buồn chiến tranh’, nếu đọc bằng con mắt hiện thực xã hội chủ nghĩa (Socialist Realism) nghiêm văn chỉnh, thì ắt bị mắng: “Phi lý, phản khoa học, bịa đặt”. Nhưng nếu đọc bằng con mắt của một kẻ vừa ra khỏi rừng Trường Sơn mà lạc vào ‘Trăm năm cô đơn’, thì đó là một cú rất… à la mode: [giao] hợp thời/ khí/ hồn.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-69.jpg

Ảnh minh họa. Bức ảnh này được cho là do họa sĩ Francisco Zúñiga vẽ năm 1948

 

Đây không phải là hiện thực huyền ảo (Magical Realism) theo kiểu Macondo có mưa hoa vàng, có người bay lên trời cùng tấm ga trải giường. Đây là hiện thực huyền ảo phiên bản Việt lầy: Ẩm thấp, ám mồ hôi, tanh mùi máu, lẫn lông thú và mùi thịt người. Huyền ảo không đến từ phép màu mà đến từ sự nhầm lẫn chết người giữa nhân dạng và sinh tồn. Khi chiến tranh kéo dài quá lâu, con người bắt đầu trông giống thú. Và ông thú, khi bị lột trần, lại lộ ra khuôn mặt ông người. Đó là thứ huyền ảo đếch cần bùa chú; chỉ cần đói, sợ, và quen tay bóp cò. Một thứ hiện thực huyền ảo rừng rú, máu me, rất Việt (“hardcore jungle-grade magical realism” he he).

 

Cảnh cạo lông là một động tác vừa ghê tởm vừa hài đen (black humour): Lột bỏ lớp “thú hóa do sinh tồn” để phát hiện ra “nhân tính”, nhưng phát hiện xong thì chôn luôn. Không có bi kịch hùng tráng. Đó là đạo đức thời chiến, khi nhân tính chỉ được công nhận sau khi đã chết.

 

Nếu bảo Bảo Ninh chịu ảnh hưởng Marquez, thì đúng, nhưng không phải ảnh hưởng phong cách, mà là ảnh hưởng một “giấy phép” của văn học thế giới. Nobel 1982 đã hợp pháp hóa quyền được viết ra cái phi lý như một sự thật. Nhưng Bảo Ninh không chỉ vay mượn cái phép màu Mỹ Latin; ổng dùng thẳng kho hàng Việt lầy: Rừng sâu, vượn lớn, đàn bà lạc rừng, và những người lính đã quen giết chóc đến mức không còn phân biệt được đối tượng. Đây là hiện thực huyền ảo kiểu “chấn thương” (Trauma literature).

 

Con vượn lớn ấy chỉ “hóa” thành người sau khi đã chết. Lúc còn sống, không ai thấy bả là người. Chiến tranh có biến người thành thú đâu nào; nó chỉ trì hoãn việc nhận ra người cho đến khi quá muộn. Và khi sự thật lộ ra, nghi thức cuối cùng của “tính nhân bản” là mai táng. Không cứu chuộc. Chỉ chôn. Đó là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi của văn chương chiến tranh Việt Nam, nơi cái cao cả không còn đứng được nữa, cái bi thương không cần gào thét, và cái phi lý bước ra sân khấu với gương mặt tỉnh bơ của sự thật. Đó là tất tật mọi bí mật.

 

_____

 

Dương Quốc Chính: Cần chứng minh

 

Mình đọc đơn của ông Phan Trung Can này mà buồn cười mãi. Nó thể hiện não trạng ngây ngô khi bắt ông nhà văn đi chứng minh sự kiện trong tiểu thuyết là có thật! Mình rất mong Bộ Quốc phòng vào cuộc, rồi từ đó mở rộng điều tra các vấn đề khác trong lịch sử chứ không chỉ trong tiểu thuyết.

 

Ví dụ như truy tìm thân nhân của anh Lê Văn Tám. Phải chăng anh này không cha không mẹ, anh em, bạn bè đồng chí? Lê Văn Tám là ai? Rồi phải có thực nghiệm hay chứng minh khoa học về hành vi tự thiêu mà chạy được đi đốt kho xăng…

 

Ngoài ra cũng cần xác minh khoa học, có thể bằng thực nghiệm, việc ôm hòn gạch nung để ngủ thì mỗi đêm tỉnh dậy mấy lần để nung lại?

 

Cũng cần thực nghiệm hiện trường lấy xác con lơ.n chặn trước nòng súng trung liên, đại liên, xem bịt được lỗ châu mai không? Nhân tiện cũng lấy xác lơ.n thí nghiệm chèn pháo đang lao xuống dốc nữa.

 

Ngoài ra cũng cần truy tìm bằng chứng về việc bác Hồ biết 29 thứ tiếng, cần có văn bản hay ghi âm, video gì đó chứng minh chứ?

 

Nhân tiện Bộ QP xác minh luôn vụ bọn Ngụy đốt sống bộ đội ta trong trận Quảng Trị trong phim Mưa đỏ nữa cho đủ combo.

 

Tóm lại là nếu xác định yêu khoa học và muốn bảo vệ sự thật lịch sử, thì có vô số việc phải làm. Chứ không chỉ có mỗi việc bắt ông nhà văn chứng minh là bộ đội ta từng hấp diêm phụ nữ và bắn chết, cạo lông con đười ươi cái giống đàn bà!

 

Vụ này rất cần Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục, Hội Nhà văn, Hội Khoa học Lịch sử lên tiếng làm rõ, cho đồng bào chiến sỹ cả nước đỡ hoang mang, xem đứa nào mới lật sử.

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/2-15-564x1024.jpg

Ảnh chụp màn hình stt của ông Phan Trung Can

 

 

 


DÂN TRÍ THẤP, ĐÓ LÀ BI KỊCH CỦA DÂN TỘC! (Thanh Hằng / Báo Tiếng Dân)

 



Dân trí thấp, đó là bi kịch của dân tộc!

Thanh Hằng

13/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/13/dan-tri-thap-do-la-bi-kich-cua-dan-toc/

 

Vụ tranh cãi về “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh cho thấy dân trí không đồng đều, thậm chí khập khiễng quá lớn. Đó là điều không chỉ đáng buồn, mà còn đáng sợ.

 

Vì sự thiếu hiểu biết tối thiểu về THỂ LOẠI trong văn học nghệ thuật, đã dẫn đến không chỉ có ý kiến như anh Tuấn gì đó, mà còn leo thang đến mức làm đơn kiện như anh Can.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-68.jpg

Đơn kiến nghị của ông Phan Trung Can gửi Bộ Quốc phòng và Hội Cựu chiến binh về tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh. Nguồn: Phan Trung Can

 

Tôi thấy sợ khi trò lố này có nhiều người hùa theo.

 

Đã là tiểu thuyết, truyện ngắn thì phải sáng tác, hay dân dã gọi là BỊA, chứ có phải ký hay ghi chép đâu mà đòi phải trung thực với thực tế.

 

Một tác phẩm được cả một hội đồng toàn những ngươi tên tuổi ở các bộ, ngành có chức năng thẩm định, mà còn bị đánh tơi tả thì quá lạ!

 

Chưa kể, trong thực tế cái gì cũng có thể xảy ra. Anh chưa gặp thì người khác gặp, chứ không thể lấy việc mình chưa gặp để khăng khăng là không có.

 

Trong chiến tranh càng không gì là không thể. Có những anh hùng thì cũng luôn có kẻ hèn hạ. Có điều, thời chiến thì chả đưa làm gì. Bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng vẫn có những con người, những thời điểm mà bản năng lớn hơn lý trí. Chỉ có điều họ không phải là đa số. Rất may.

 

Hồi nhà thơ Đặng Vương Hưng in các nhật ký của các chiến sĩ bộ đội trong chiến tranh, mình đọc xong mới giật mình vì sự thật khốc liệt hơn những gì mình biết qua sách báo, là không chỉ có Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm đâu, mà vẫn có những kẻ đào ngũ hay gọi là “B quay”, chứ không phải tất cả đều hát “đường ra trận mùa này đẹp lắm”!

 

Lúc sinh thời nhà văn Nguyễn Khắc Phục, mình từng thân thiết với ông và nghe ông kể hồi ở chiến trường, ông từng tóm sống một đồng đội “B quay” và đưa về, với lời hứa “sống để dạ chết mang theo” về sự phản bội này và sau, người đó là một nhà văn nổi tiếng.

 

Gần nhà mình có ông đi tù vì ngủ với vợ bộ đội đi B.

 

Còn nói bộ đội có hiếp dâm không? Anh Can anh Kiếc gì đó ơi, lên Thái Nguyên, khu vực đóng quân của Quân đoàn 3 khoảng sau 1979 mà hỏi xem nhé. Khi đó đã cơ bản hết chiến tranh rồi đó.

 

Do chưa có doanh trại, bộ đội Quân đoàn 3 chuyển đến còn ở nhờ nhà dân hoặc khu hành chính xã nên rất tự do.

 

Những người lính trẻ xa nhà, lại từ chiến tranh khốc liệt bước ra, và lại ở tự do, nên cũng có “một bộ phận” khá là “hoang dại”, kể cả trộm cắp của nhà dân. Nhưng tôi chỉ nhắc đến ký ức kinh hoàng về “quan hệ phóng túng”!

 

Thời gian đó khủng khiếp đến nỗi đàn bà con gái chúng tôi không dám đi ra đường buổi tối, dù thị trấn nhỏ của tôi vốn rất bình yên.

 

Gái trẻ ra đường sợ đã đành, chứ lớn tuổi như mẹ của bạn tôi là cô Thịnh Mi, cách nhà tôi vào trăm mét, buổi tối đi dạo trên đường, mà còn bị mấy “anh” bộ đội trẻ măng lao vào ôm, bóp v*. Cô ý la lên “tôi già rồi, tha cho tôi” họ mới tha, và cô ấy vứt cả guốc bỏ chạy. Từ đó cạch không có đi dạo diếc gì nữa.

 

Đấy là trên phố nhỏ của thị trấn Đại Từ chứ chỗ vắng thì không biết thế nào. Vì thế, dân Đại Từ chúng tôi khi đó có câu “Quân đoàn ba, bà già cũng chén”!

 

Thời điểm đó, nhiều cô gái quê tôi thành mẹ đơn thân vì mấy anh bộ đội trẻ lắm. Bạn học cùng lớp tôi cũng bị một anh bộ đội Quân đoàn 3 tà lưa, thấy có thai là anh ta bỏ của chạy lấy người. Nuôi con một mình. Rất khổ.

 

Có cô có bầu với anh bộ đội Quân đoàn 3, gia đình đến hỏi cưới như đúng rồi, nhưng ngày cưới thì không thấy nhà trai đến đón dâu. Té ngửa ra là lừa. Những người đến hỏi là đóng giả. Ở quê, cảnh đó ê chề lắm! Ê chề cả đời luôn ý.

 

Còn không ít cảnh bi hài kịch thời điểm đó. Về sau, dân kêu thấu nên mới đưa bộ đội vào doanh trại và kiểm soát chặt chẽ, thì mới chấm dứt nạn “kiêu binh”!

 

Cho nên, thực tế xã hội không gì không thể. Kể cả thời chiến lẫn thời bình.

 

Ngay vụ Đoàn Văn Sáng giết Nguyễn Xuân Đạt tàn khốc thế, nếu Group OSINT không điều tra ra thủ phạm, thì nói cũng không ai tin và 100% bảo là bịa.

 

Còn tiểu thuyết, có thể có nguyên mẫu, có thể không. Và nếu không đủ kiến thức tối thiểu để hiểu về văn học nghệ thuật, thì đừng chém, đừng gào lên dạy dỗ những người có phông văn hoá rộng hơn mình, vì lộ ra mình ngu!

 

Thế giới không ai kiện phim bom tấn như Titanic, Avatar, Salt, Iris v.v.. vì không giống đời thực. Cũng không ai kiện các tác phẩm từng được trao Nobel như Trăm năm cô đơn, Cao lương đỏ, vì cho rằng truyện không giống đời thực.

 

Việc chửi bởi và kiện phim với tiểu thuyết – thể loại sáng tác, hư cấu – chỉ vì nó không giống đời thực, có lẽ chỉ ở xứ Đông Lào.

 

Trong khi chỉ cần vào Google hỏi thế nào là tiểu thuyết, phim truyện, thì một phút là có thêm kiến thức tối thiểu trước khi đọc/ xem, nhưng không làm. Cứ chửi. Kệ thiên hạ biết là mình dốt, nhưng vẫn tưởng là hay.

 

Tiểu thuyết, phim truyện còn thế thì bao giờ mới với được đến nhạc không lời?

 

Năm 2003, nhà văn Nguyễn Bình Phương (hình như giờ là TBT Văn Nghệ Quân Đội?) đã “xui” mình viết bài với đề tài “không chỉ người viết, mà người đọc cũng cần có phông văn hoá”.

 

Sau hơn 20 năm, nghiệt ngã thay, ý kiến đó vẫn đúng! Nó cho thấy mất hơn hai thập kỷ mà rào cản cho sự phát triển văn học nghệ thuật vẫn còn nguyên.

 

Dân trí thấp, đó là bi kịch của dân tộc!

 

 

 

 


NHÂN DỊP 50 NĂM SÀI GÒN THẤT THỦ, ÔN LẠI LỊCH SỬ “AI LÀM MẤT MIỀN NAM VIỆT NAM”? (Nguyễn Quốc Khải / Báo Tiếng Dân)

 



 

Nhân dịp 50 năm Sài Gòn thất thủ, ôn lại lịch sử “ai làm mất Miền Nam Việt Nam”?

Nguyễn Quốc Khải

14/12/2025

https://baotiengdan.com/2025/12/14/nhan-dip-50-nam-sai-gon-that-thu-on-lai-lich-su-ai-lam-mat-mien-nam-viet-nam/

 

Theo thói quen đa số người Việt gốc miền Nam Việt Nam đều chỉ trích Hoa Kỳ, đặc biệt là Đảng Dân Chủ, đã bỏ rơi VNCH. Tin tưởng này được tăng cường bởi những lập luận thiếu căn bản dựa trên những tài liệu thiếu cập nhật của những cố vấn cũ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Ít người có can đảm và tính chất vô tư để nhìn vào sự thật.

 

Thực tế theo những tài liệu đã được giải mật, việc Hoa Kỳ rút quân và ngưng viện trợ cho Việt Nam là quyết định chung của cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Hầu hết dân Hoa Kỳ đã quay sang chống chiến tranh Việt Nam từ năm 1963. Sau biến cố Tết Mậu Thân, phong trào phản chiến càng mạnh. Hoa Kỳ đã bắt đầu rút một số chiến cụ ra khỏi Việt Nam từ năm 1968. Hiệp Định Paris 1973 là do Nixon và Kissinger chủ xướng để tạo cơ hội an toàn cho người Mỹ rút khỏi Việt Nam (Decent Interval của Frank Snepp).

 

HÌNH : https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-71-1068x646.jpg

KS Phan Khắc Sửu      GS Trần Văn Hương      BS Phan Huy Quát

 

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963), kinh nghiệm về loạn sứ quân, chính quyền Ngô Đình Diệm đã kiềm chế các đảng phái quốc gia đối lập. Khi lên nắm chính quyền, ông Diệm thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị Việt Nam vào năm 1954 dựa vào thành phần công chức và quân đội. Đến năm 1963 đảng Cần Lao tan rã. Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975), các đảng phái quốc gia được tự do hoạt động hơn, nhưng phân hóa nội bộ và không có thực lực. Cũng như ông Diệm, khi lên nắm chính quyền, ông Thiệu đã nhanh chóng thành lập đảng Dân Chủ vào năm 1967 và cũng dựa vào công chức và quân đội. Đến năm 1969, đảng Dân Chủ giải tán và được ông Thiệu thay thế bằng Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội. Vào năm 1975, Mặt Trận QGDCXH sụp đổ theo miền Nam Việt Nam.

 

Ngày 19/6/1965 là Ngày Quân Lực, nhưng cũng chính là ngày chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu trao trách nhiệm lãnh đạo quốc gia cho quân đội vì Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu không thể giải quyết những mâu thuẫn chính trị với Thủ Tướng Phan Huy Quát. Do đó, quyền điều hành đất nước rơi vào tay phe quân nhân. Chính những cuộc đảo chính, chỉnh lý, và đấu đá nội bộ liên tục từ năm 1955 đến 1975 phần lớn do các tướng tá VNCH cầm đầu là nguyên nhân chính đã làm suy yếu và cuối cùng làm sụp đổ miền Nam.

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-72.jpg

 

Trong những tháng cuối cùng của miền Nam Việt Nam, ông Nguyễn Văn Thiệu còn lo sợ bị đảo chánh. Vào tháng 2 năm 1974, ông Thiệu ra lệnh bãi nhiệm cựu Thiếu Tướng Phạm Văn Đỗng đang giữ chức vụ bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh trong chính phủ Trần Thiên Khiêm, và bắt giam ông với tội chứa bạc lậu mà không xét xử. Vào ngày 8/4/1975 có hai biến cố lớn xẩy ra. Phi công Nguyễn Thành Trung từ phi trường Biên Hòa bay về Sài Gòn ném bom Dinh Độc Lập vào lúc 8:30 phút sáng. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III ở Biên Hòa, chết đầy bí ẩn tại văn phòng, được khám phá vào 4 giờ chiều.

 

Theo một bản phúc trình của ông Frank Snepp, nhân viên CIA tại Việt Nam, về tình trạng của chính quyền miền Nam Việt Nam: Nhiều người Sài Gòn, gồm cả ông Nguyễn Cao Kỳ, muốn lật đổ, kể cả ám sát ông Thiệu vì tình hình chiến sự trở nên tồi tệ sau khi ông Thiệu rút quân khỏi cao nguyên Trung Phần. Ông Nguyễn Văn Thiệu bị ép buộc phải từ chức vào ngày 21/4/1975. Tổng Thống Trần Văn Hương đã gặp Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin để yêu cầu giúp đưa ông Thiệu ra khỏi Việt Nam vào ngày 25/4/1975 vì ông Thiệu là nguồn gốc của sự hỗn loạn lúc bấy giờ. Bà Nguyễn Văn Thiệu đã bay qua Bangkok trước đó để lánh nạn.

 

Đã có vài cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954-1975. Trên internet cũng có khá nhiều bài báo phân tách những vấn đề này. Thế hệ lớn tuổi sinh vào thập niên 40-50 đều có ít nhiều kiến thức về lịch sử cận đại. Nói về Ngô Đình Diệm, Bẩy Viễn, Ba Cụt, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, hay cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 thì ai cũng biết. Bài báo ngắn gọn này chỉ trả lời một câu hỏi duy nhất ‘những nhân vật chính nào làm mất miền Nam Việt Nam’, dựa vào dữ kiện lịch sử.

 

Dĩ nhiên có rất nhiều lý do khiến miền Nam sụp đổ, như cuộc khủng hoảng Phật Giáo, phong trào phản chiến, nhưng tựu trung vẫn rơi vào trách nhiệm của những người lãnh đạo. Cá nhân 18 nhân vật được nêu tên không thể làm được gì, nhưng phía sau lưng họ có không ít những kẻ đồng lõa.

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-73.jpg

18 nhân vật gây xóa trộn ở Miền Nam Việt Nam

 

Ông Ngô Đình Diệm chịu trách nhiệm về khủng hoảng Phật Giáo năm 1963, nhưng đằng sau ông là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân, và Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục với tham vọng trở thành Đức Hồng Y. Lệnh cấm không cho treo cờ Phật Giáo tại tư gia vào ngày lễ Phật Đản 8/5/1963 là một giọt nước cuối cùng làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.

 

Nhóm tướng lãnh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963 ngoài Dương Văn Minh còn có hơn 10 sĩ quan cao cấp khác, bao gồm Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh, Lê Văn Phát, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Hữu Có, Phạm Văn Đỗng, Đỗ Mậu, Trần Thiện Khiêm, Phạm Xuân Chiểu, Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Thiệu, và Nguyễn Cao Kỳ.

 

Những sĩ quan chống lại đảo chánh là Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền và Huỳnh Văn Cao. Tướng Cao Văn Viên không chống mà cũng không tham dự đảo chánh. Ông Viên suýt bị nhóm Dương Văn Minh thủ tiêu như đã giết Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền. Đại Tá Lê Quang Tung là tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, kiêm chỉ huy trưởng Liên Quân Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. Ông theo đạo Công Giáo và quê quán ở Thừa Thiên, được Tổng Thống Diệm tin dùng. Đại Tá Tung và em là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, cùng với tư lệnh các quân binh chủng và các giám đốc nha sở ở Sài Gòn được lệnh về họp tại Bộ Tổng Tham Mưu vào ngày đảo chánh 1/1/1963. Buổi chiều cùng ngày, hai anh em Đại Tá Tung bị giết chết. Thân xác hai ông bị thất lạc cho đến ngày nay.

 

Tướng Huỳnh Văn Cao, một sĩ quan Công Giáo, trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không mang quân về giải cứu Sài Gòn được vì quân đảo chánh đã rút hết các phà ở bến Mỹ Thuận, Tiền Giang về phía bắc. Sau khi đảo chánh thành công, ông tuyên bố ủng hộ nhóm Dương Văn Minh, nhưng vẫn bị cách chức tư lệnh Quân Đoàn IV và bị thuyên chuyển đi làm chỉ huy trưởng Trung Tâm Phát Triển Khả Năng Tác Chiến.

 

Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân, đã hai lần cứu nguy Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chánh 11-11-1960 do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu và vụ ném bom Dinh Độc Lập vào ngày 27-2-1962 do hai sĩ quan phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc chủ mưu. Đại Tá Quyền bị hai sĩ quan dưới quyền sát hại vào sáng ngày 1-11-1963 tại một rừng cao su tại Thủ Đức theo lệnh của nhóm đảo chánh do Tướng Dương Văn Minh cầm đầu.

 

Ông Cao Văn Viên là một người ngưỡng mộ Tổng Thống Diệm. Ông cũng bị nhóm tướng lãnh giam giữ nhưng thoát chết vì sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính. Ông Đính thuyết phục ông Dương Văn Minh rằng ông Viên không chống đảo chánh. Phu nhân của Tướng Viên là bạn chơi mạt chược với ông Đính. Ba tháng sau, ông Minh bị tướng Nguyễn Khánh đảo chánh lật đổ. Thế cờ lật ngược một cách oái ăm. Lính nhẩy dù của tướng Viên đã canh giữ ông Minh bị giam lỏng ở Đà Lạt. Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của Tướng Dương Văn Minh, người hạ sát hai anh em ông Ngô Đình Diệm và hai anh em ông Lê Quang Tung, sau đảo chánh được thăng cấp thiếu tá, bị tướng Khánh ra lệnh giết chết.

 

Trong cuộc phỏng vấn với BBC vào tháng 10 năm 2021, ông Frank Snepp, tác giả cuốn sách “Decent Interval”, một người bạn của Việt Nam, đã nói với nhà báo Tina Hà Giang:

 

Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ vì sự việc phức tạp hơn nhiều. Một lần nữa, Hoa Kỳ có bỏ rơi VNCH không là một câu hỏi phức tạp, nhưng nói chung là có. Kissinger và Nixon đã bỏ rơi Việt Nam. Nhưng việc thất trận của VNCH đến từ những lý do gần nhà hơn“. Frank Snepp ám chỉ rằng, thua trận là do người Việt và hai yếu tố quan trọng là tham nhũng và kém hiệu quả.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-74-1024x785.jpg

Báo New York Times tương thuật cuộc tấn công Tòa Đại Sứ Hoa ở Sài Gòn của VC vào ngày 30-1-1968 bị đẩy lui sau 6 tiếng đồng hồ.

 

Biến cố Tết Mậu Thân là một thí dụ của việc kém hiệu quả, thay đổi cả số phận của nước Việt Nam. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 của CSVN dưới chiêu bài Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam nhằm vận động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược tấn công từ rừng núi, nông thôn vào thành phố.  Chiến dịch diễn ra trên hầu hết các đô thị tại miền Nam, nhắm vào những khu vực trọng yếu của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa và vào khoảng thời gian của cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 9 năm 1967 và cuộc thống Mỹ vào tháng 11 năm 1968.

 

Việc chuẩn bị cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 kéo dài hơn hai năm mà chính quyền VNCH và tình báo Mỹ hoàn toàn không hay biết. CSVN đã vận chuyển thêm nhiều võ khí, lương thực, thuốc men, và khoảng 94,000 binh lính miền Bắc vào Nam dọc theo dãy Trường Sơn và qua cảng Sihanouk. Lúc trận chiến Mậu Thân xảy ra thì Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho ăn tết vì tin vào lời hứa hưu chiến của CSVN. Tuy bị đánh bất ngờ, nhưng quân lực VNCH đã mau chóng đẩy lui được quân CSVN ngoại trừ Huế phải mất một tháng từ ngày 30/1/1968 đến 28/2/1968. Dân miền Nam đã không nổi dậy như CSVN mong muốn.

 

Về mặt quân sự, CSVN đã thất bại trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân với tổn thất nhân sự rất lớn. Thiệt hại của Cộng quân là 40,000 binh sĩ so với VNCH và Mỹ là 3,000 người. Ngoài ra, nhiều cơ sở nằm vùng của Cộng Sản đã bị lộ tẩy. Phải chờ đến 1972, CSVN mới thực hiện được cuộc tấn công vào lễ Phục Sinh 1972, nhưng không phải dưới chiêu bài MTGPMN nữa, mà trực tiếp công khai từ tràn qua sông Bến Hải.

 

Tuy nhiên CSVN đã gây được một thắng lợi chính trị to lớn. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân làm sụp đổ hoàn toàn ý chí chiến đấu của chính quyền và sự ủng hộ của dân Mỹ, đặc biệt là khối người gốc Do Thái vì tình hình Trung Đông vào thời điểm này đang sôi sục. Nước Mỹ phải rút ra khỏi vùng Đông Nam Á để cứu Do Thái. Trong thập niên 1960, Trung Đông bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc Ả Rập đang trỗi dậy, cuộc xung đột Ả Rập-Israel đang diễn ra lên đến cao điểm là Chiến tranh sáu ngày năm 1967 và sau đó là cuộc chiến Yom Kippur War 1973.

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-75-1024x881.jpg

 

Sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, Tướng William Westmoreland, chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã yêu cầu tăng thêm 206,000 quân để giành lại thế chủ động và giành chiến thắng, nhưng Tổng thống Lyndon B. Johnson đã từ chối yêu cầu này, thay vào đó chỉ chấp thuận tăng cường quân số ít hơn (khoảng 24,200 quân), một quyết định làm thay đổi đáng kể chính sách của Hoa Kỳ và dẫn đến việc Johnson quyết định không tái tranh cử. Cuộc tổng tấn công 1968 là khúc quanh lịch sử của chiến tranh Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, như cựu nhân viên tình báo CIA Frank Snepp xác nhận, phần lớn lực lượng Hoa Kỳ đã rút ra khỏi Việt Nam, không phải chờ đến Hiệp Định Paris.

 

Khi Tổng Thống Richard Nixon lên nắm chính quyền, Hoa Kỳ bắt đầu đơn phương rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 7 năm 1969, với nhóm đầu tiên gồm 814 binh sĩ theo kế hoạch “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”. Quá trình rút quân được thực hiện theo từng giai đoạn và kết thúc vào ngày 29-3-1973, khi những binh sĩ chiến đấu cuối cùng của Hoa Kỳ rời đi, mặc dù vẫn còn một số nhân viên hỗ trợ ở lại.

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/12/1-76-1024x813.jpg

Người dân Huế thu hồi xác thân nhân bị Cộng Quân sát hại dịp Tết Mậu Thân 1968  (Hình : Flicr manhhai)

 

Ngay từ cuối năm 1970, Tu Chính Án lưỡng đảng Cooper-Church của Foreign Assistance Act 1970 được Quốc Hội thông qua đã cấm quân đội Mỹ tham gia vào các hoạt động chiến đấu trên bộ ở Lào hoặc Campuchia.

 

Dự thảo Tu Chánh Án lưỡng đảng McGovern-Hatfield gắn liền vào Military Procurement Bill cũng đã đệ trình Quốc Hội, đòi hỏi Hoa Kỳ chấm dứt các hoạt động quân sự tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 31-12-1970 và rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ vào giữa năm sau. Chính quyền Nixon đã phản đối mạnh mẽ tu chánh án này vì cho rằng ấn định thời hạn rút quân sẽ làm suy yếu vị thế đàm phán của Hoa Kỳ với chính quyền Hà Nội. Do đó nó đã không được Quốc Hội thông qua hai lần. Cuốn sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng không đề cập đến hai tu chánh án trên đây và cũng không nói đến phong trào quần chúng Mỹ phản chiến.

 

Vì biết Hoa Kỳ đã khởi sự rút quân và biết rằng không có chuyện dân miền Nam tổng khởi nghĩa lật đổ chế độ VNCH, cho nên Lê Duẩn đã công khai xua quân vượt sông Bến Hải vào mùa hè đỏ lửa.

 

Vấn đề là người Việt có can đảm nhìn vào sự thật hay không hay là cứ tiếp tục lừa bịp chính mình và đánh võ tự do, không biết ai là thù, ai là địch. Chắc chắn không phải đơn giản là vì không có $300 triệu tiền viện trợ súng đạn mà giờ chót cứu được miền Nam. Không ít người Việt mê muội theo Cộng Hòa cuồng Trump để trả thù đảng Dân Chủ, một lần nữa lại đặt hy vọng vào một ông tổng thống điên khùng Hoa Kỳ sẽ cứu Việt Nam. Thật đầy mâu thuẫn.

 

Miền Nam Việt Nam được yên ổn và phát triển vào những năm 1955-1960. Giai đoạn tiếp theo 1961-1975 đầy những xáo trộn và bất trắc ngay trong nội bộ. Thù trong giặc ngoài đến kinh hoàng. Tranh giành quyền lực giữa các phe phái quốc gia làm miền Nam ngày càng suy yếu. Trong lúc đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, công cụ của Cộng Sản Bắc Việt, thành lập vào ngày 20-12-1960, lợi dụng thời cơ bành trướng mạnh. Hậu quả không tránh được là miền Nam đã sụp đổ vỏn vẹn trong 15 năm ngắn ngủi.

 

Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Nhìn vào sự thật để rút kinh nghiệm, nếu không, sai lầm này đưa đến sai lầm khác.