Kinh tế Mỹ và bóng ma ‘đình lạm’
Hiếu Chân/Người Việt
August
8, 2025 : 10:02 PM
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/kinh-te-my-va-bong-ma-dinh-lam/
Sau nhiều
lần trì hoãn, chính sách thuế quan độc đáo của ông Donald Trump, tổng thống Mỹ,
chính thức có hiệu lực từ hôm Thứ Năm, 7 Tháng Tám. Và với chính sách đó, hầu hết
các nhà kinh tế học đều nhận định, kinh tế Mỹ đang bước vào thời kỳ “đình lạm”
kéo dài, ảnh hưởng xấu không chỉ đến hoạt động của các doanh nghiệp mà còn làm
hao hụt túi tiền của mọi người dân.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/08/A1-Kinh-te-My-bong-da-1920x1270.jpg
Chính
sách thuế quan độc đáo của ông Donald Trump, tổng thống Mỹ, khiến giá xe hơi sẽ
tăng 9.4% và 12.4%, tương ứng mỗi chiếc xe sẽ đắt hơn từ $4,500 đến $6,000 so với
giá 2024. (Hình minh họa: Focke Strangmann/Getty Images)
Thuế
quan trong lịch sử
Đình lạm
(stagflation), ghép của hai từ tiếng Anh “stagnation” và “inflation,” là thuật
ngữ kinh tế chỉ tình trạng một nền kinh tế vừa bị đình trệ (stagnation), vừa bị
lạm phát (inflation).
Theo lý
thuyết kinh tế, tình trạng “đình lạm” bắt đầu khi trong nền kinh tế có ba yếu tố
xảy ra đồng thời: lạm phát (giá hàng hóa tăng, sức mua giảm), kinh tế đình đốn
(kinh tế không tăng trưởng, thậm chí co lại) và thất nghiệp cao. Ba yếu tố này
không tồn tại riêng rẽ mà kết nối với nhau chặt chẽ, không thể xử lý yếu tố này
mà không ảnh hưởng đến các yếu tố còn lại, ví dụ không thể yêu cầu các hãng xưởng
tăng sản xuất, thuê mướn công nhân nếu không làm giảm giá hàng hoá nguyên liệu
và ngược lại.
Trong nửa
năm qua, chính quyền Trump đã có nhiều chính sách cực đoan, trong đó hai chính
sách có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế là chính sách trục xuất người nhập
cư và áp đặt thuế quan (tariff) lên hàng hóa nhập cảng. Chỉ riêng chính sách
thuế quan, ông Trump đã đảo ngược quá trình tự do hóa thương mại đã hình thành
từng bước trong suốt 90 năm qua, đưa nước Mỹ trở lại với thời kỳ hàng hóa nhập
cảng vào Mỹ phải chịu các mức thuế cao vòi vọi theo luật Smoot-Hawley.
Luật
Smoot-Hawley Tariff Act of 1930 (SHTA) do ông Herbert Hoover, tổng thống thứ
31, ban hành, đánh thuế cao lên hàng hóa nhập cảng để bảo vệ doanh nghiệp và
nông dân Mỹ. Nhưng nó “phản tác dụng” và gây ra hậu quả tệ hại khi các nước bạn
hàng đánh thuế trả đũa lên hàng Mỹ, gây tổn thương cho các ngành công nghiệp dựa
vào xuất cảng của chính nước Mỹ, làm mất công ăn việc làm và suy giảm sản xuất.
Các sử gia
và nhà kinh tế đều cho rằng, luật SHTA là yếu tố quan trọng dẫn tới cuộc Đại
Suy Thoái (Great Depression) những năm 1930-1934 dù không phải là yếu tố đầu
tiên. Nên để ý, so với tổng sản lượng quốc gia (GDP), giá trị hàng nhập cảng
vào nước Mỹ bây giờ nhiều gấp ba lần thời 1930 nên chính sách thuế quan của ông
Trump có tác động trầm trọng hơn nhiều so với luật SHTA; nếu SHTA góp phần tạo
ra cuộc Đại Suy Thoái thì chính sách thuế quan của ông Trump sẽ gây ra “đình lạm”
không phải là khó hiểu.
Ngắn
gọn về thuế quan của ông Trump
Theo thông
báo về thuế đối ứng (reciprocal tariff) được Tòa Bạch Ốc công bố ngày 31 Tháng
Bảy, ngoài đa số các quốc gia trên thế giới chỉ chịu mức thuế căn bản 10% thì
có 64 quốc gia phải chịu mức thuế đối ứng cao hơn. Trong số này có 38 nước bị
áp thuế 15%; 24 nước bị áp thuế từ 18% lên đến 41%, đa số rơi vào khoảng từ 19%
đến 30%; Việt Nam và Đài Loan chịu chung mức thuế 20%. Đặc biệt, Ấn Độ và
Brazil phải chịu mức thuế đến 50%. Hàng hóa Trung Quốc sẽ phải chịu thuế 55% từ
tuần tới nếu hai nước không đạt được một thỏa thuận thương mại trong cuộc họp
đang diễn ra ở Thụy Điển.
Hàng hóa
“trung chuyển” (transhipping) – được sản xuất ở nước có mức thuế cao nhưng “núp
bóng” một nước có mức thuế thấp khi bán vào Mỹ – phải chịu thuế 40%. Chưa có định
nghĩa chi tiết thế nào là “hàng trung chuyển,” nhưng thông báo của Tòa Bạch Ốc
cho biết, Cơ Quan Quan Thuế và Biên Phòng Mỹ (CBP) sẽ quyết định những lô hàng
nào là hàng “trung chuyển” và áp mức thuế phù hợp.
Ngoài xuất
xứ hàng hóa gọi là country-specific duties, chính sách thuế quan của ông Trump
còn áp dụng cho một số chủng loại hàng hóa (sectoral duties), chẳng hạn các
nguyên liệu thép, nhôm, đồng nhập cảng bị đánh thuế 50% từ ngày 4 Tháng Sáu, xe
hơi và phụ tùng xe hơi chịu thuế 25%… Ông Trump cũng đe dọa đánh thuế 100% lên
vi mạch điện tử bán dẫn sản xuất ngoài nước Mỹ và dự tính đánh thuế lên dược phẩm
nhập cảng, có thể lên tới 250% sau hai năm nữa để lôi kéo các hãng dược phẩm Âu
Châu đến mở cơ sở bào chế ở Mỹ…
Lạm
phát sẽ đến đâu?
Thuế nhập
cảng tăng chắc chắn sẽ làm cho giá hàng tăng, đẩy lạm phát lên vì về bản chất
thuế nhập cảng là thuế tiêu thụ đánh lên hàng hóa sản xuất ở nước ngoài mà người
tiêu thụ phải chịu. Chỉ có một cách duy nhất để giá hàng không tăng là nhà sản
xuất ở nước ngoài phải “gánh” lấy khoản thuế đó bằng cách giảm giá hàng bán ra
nhằm giữ thị phần, giữ khách hàng. Tuy nhiên, điều này rất khó xảy ra. Theo
tính toán của Ngân Hàng Đầu Tư Goldman Sachs, bình quân nhà sản xuất nước ngoài
chỉ “gánh” khoản 20% số thuế nhập cảng, 80% còn lại người mua hàng phải chịu.
Trước khi
ông Trump ban hành chính sách thuế mới, hàng hóa vào Mỹ phải chịu mức thuế nhập
cảng bình quân khoảng 2.8%-3%. Nay thì khi mua hàng nhập cảng người tiêu dùng Mỹ
nói chung phải chịu mức thuế bình quân 18.6%, mức cao nhất kể từ năm 1933, và
bình quân mỗi gia đình tiêu tốn thêm $2,400 để mua hàng trong năm 2025, theo
nghiên cứu của Yale Budget Lab (YBL) thuộc đại học Yale University.
Vẫn có người
không tin thuế quan sẽ làm tăng giá hàng hóa. Họ dẫn số liệu của Bộ Thương Mại
cho thấy giá hàng hóa Tháng Sáu chỉ tăng 2.6% so với cùng kỳ năm ngoái dù ông
Trump đã bắt đầu đánh thuế nhập cảng từ khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc vào cuối
Tháng Giêng và chính thức công bố biểu thuế đối ứng lên toàn thế giới ngày 2
Tháng Tư mà ông gọi một cách trào phúng là “Ngày Giải Phóng.”
Thực tế,
giá hàng hóa đã tăng nhưng chưa tăng nhiều, do một số nguyên nhân. Một là,
chính ông Trump đã đình hoãn việc áp thuế đối ứng đã công bố, chỉ áp dụng mức
thuế căn bản 10% trong ba tháng, hai là các công ty nhập cảng đã “tranh thủ”
mua thật nhiều hàng trước khi các mức thuế đối ứng có hiệu lực và hiện nay vẫn
tiếp tục bán ra số hàng tồn kho đó với mức giá cũ, và ba là các công ty, cả sản
xuất và nhập cảng, đều chưa muốn tăng giá hàng hoá để mất người mua vì vẫn hy vọng
chính sách thuế sẽ thay đổi.
Nay thì
chính sách ít có khả năng thay đổi nữa, hàng tồn kho đã cạn dần và doanh nghiệp
không có cách nào khác hơn là phải chuyển thuế quan vào giá hàng để người tiêu
dùng phải chịu. Dự báo trong những tháng tới, người mua hàng sẽ chứng kiến giá
hàng hóa nhập cảng tăng chóng mặt và con số lạm phát sẽ không dừng ở mức dưới
3%/năm hiện nay.
Theo
nghiên cứu của YBL và Tax Foundation, trong vài tháng tới, một số mặt hàng thiết
yếu như quần áo, giày dép, thực phẩm, xe hơi… sẽ tăng giá mạnh và người tiêu thụ
Mỹ sẽ bắt đầu thấm đòn. Trong ngắn hạn, giá giày dép có thể tăng 39%, quần áo
tăng 37%, và về dài hạn, mức giá giày dép có thể cao hơn 19%, giá quần áo cao
hơn 18% so với các mức giá hiện hành.
Giá thực
phẩm sẽ tăng 3.2% trong ngắn hạn và 2.9% trong dài hạn. Giá xe hơi sẽ tăng 9.4%
và 12.4%, tương ứng mỗi chiếc xe sẽ đắt hơn từ $4,500 đến $6,000 so với giá
2024. Hãng xe GM đã mất hơn $1 tỷ và dự báo sẽ phải chi thêm $4 tỷ trong năm
nay, hãng xe Toyota đã giảm 37% lợi nhuận trong tam cá nguyệt Tháng Tư đến
Tháng Sáu và dự báo một triển vọng ảm đạm trong năm 2025…
Tăng
trưởng thụt lùi
Gần đây,
tăng trưởng kinh tế của Mỹ đạt mức cao nhất 3.75%/năm trong quý 2, 2023, giảm
còn 1.25%/năm trong quý 1, 2025 và đang tiếp tục giảm, theo dữ liệu của Bureau
of Economic Analysis (BEA). Do chính sách thuế quan của ông Trump và phản ứng
trả đũa từ các nước đối tác, kinh tế Mỹ dự báo sẽ không tăng trưởng mà co lại
khoảng 0.5% mỗi năm trong hai năm 2025-2026 và trong dài hạn sẽ giảm 0.41% mỗi
năm, tương đương với mất đi $125 tỷ trong tổng sản lượng quốc gia mỗi năm, theo
nghiên cứu của YBL tại báo cáo “State of U.S.Tariff: August 7, 2025” vừa công bố.
Để so
sánh, báo cáo của YBL chỉ ra rằng, trong dài hạn, kinh tế Canada sẽ giảm 2.1%,
Trung Quốc giảm 0.2% trong khi kinh tế Liên Âu (EU) chỉ tăng 0.1% và kinh tế
Anh tăng 0.2%, tất cả đều do tác động của chính sách thuế quan của Trump cùng
biện pháp đối phó của từng nước.
Theo lý
thuyết, một nền kinh tế bị coi là “suy thoái” (recession) khi tăng trưởng bị
“âm,” bị giảm trong ba quý liên tiếp. Sự kiện tăng trưởng kinh tế Mỹ có thể bị
suy giảm trong thời gian dài chắc chắn là hiện tượng “đình trệ,” thậm chí “suy
thoái.”
Thị
trường việc làm ảm đạm
Bên cạnh
giá cả và lạm phát, thị trường lao động Mỹ cũng đang bộc lộ những dấu hiệu đáng
lo ngại. Một là, số công ăn việc làm được tạo ra trong nền kinh tế đang chậm lại
rõ rệt. Báo cáo về lao động và tiền lương công bố hôm 1 Tháng Tám ghi nhận
trong Tháng Bảy chỉ có 73,000 việc làm mới được tạo ra, trong khi dữ kiện được
điều chỉnh của Tháng Năm và Tháng Sáu cũng cho thấy chỉ có 106,000 việc làm mới,
giảm tới 258,000 việc so với dữ kiện sơ bộ công bố trước đó.
Báo cáo số
việc làm thấp chưa từng thấy đã khiến ông Donald Trump nổi giận và sa thải ngay
lập tức Tiến Sĩ Erika McEntarfer, giám đốc Cơ Quan Thống Kê Lao Động (BLS) thuộc
Bộ Lao Động. Cách chức người lãnh đạo không làm thay đổi tình trạng u ám của thị
trường lao động mà theo một số nhà kinh tế, thị trường đã “đụng trần:” tỷ lệ thất
nghiệp tăng từ 4.1% lên 4.2%, số người thất nghiệp dài hạn (đã thất nghiệp hơn
27 tuần) tăng cao chứng tỏ người dân rất khó tìm được việc làm mới.
Ngoài
chính sách thuế quan thay đổi chóng mặt làm cho các doanh nghiệp không dám mở rộng
sản xuất kinh doanh, thuê mướn lao động thì sự kiện chính quyền liên bang sa thải
hàng trăm ngàn công chức và sự áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (artificial
intelligence – AI) vào một số hoạt động của doanh nghiệp thay cho con người
cũng làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế.
Phân tích
dữ liệu lao động cho thấy số việc làm mới được tạo ra trong sáu tháng cầm quyền
của ông Trump tập trung trong các ngành chăm sóc sức khỏe, trong khi việc làm
trong ngành sản xuất công nghiệp, bán lẻ, kinh doanh… lại không tăng, thậm chí
giảm. Mục đích dùng thuế quan để lôi kéo các hãng xưởng về Mỹ, phục hồi các
ngành công nghiệp mà ông Trump nhắm tới xem ra hãy còn quá xa xôi.
Điểm
sáng: thu được nhiều tiền thuế
Có một điều
về thuế quan mà ông Trump thường lên truyền hình tự hào quảng bá cho công chúng
Mỹ: số tiền thuế nhập cảng thu về ngân khố quốc gia đã tăng gần $50 tỷ mỗi
tháng so với thời ông Joe Biden; từ Tháng Tư đến nay đã thu về $150 tỷ và dự
báo sẽ còn tăng mạnh khi chính sách thuế đối ứng có hiệu lực từ ngày 7 Tháng
Tám.
Ông Peter
Navarro, cố vấn thương mại của Tòa Bạch Ốc, tính toán rằng, nước Mỹ nhập cảng mỗi
năm $3,000 tỷ hàng hóa, nếu đánh thuế 20% (hiện là 18.6%) thì ngân khố sẽ thu
được $600 tỷ. Ông Trump thì mong tới ngày ngân khố sẽ thu thuế nhập cảng đủ nhiều
để bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân, đánh vào tiền lương, như dưới thời ông William
McKinley, tổng thống Mỹ thứ 25…
Có điều,
đánh thuế cao thì người ta bớt mua hàng, nhập cảng giảm thì số thu thuế nhập cảng
cũng sẽ giảm theo. YBL tính ra với mức thuế mới, trong giai đoạn 2025-2034,
ngân sách nước Mỹ sẽ thu thêm được $2,100 tỷ sau khi trừ khoản sụt giảm $431 tỷ
có thể xảy ra. Đây là một khoản tiền lớn, bù đắp một phần khoản thất thu ngân
sách $3,400 tỷ gây ra bởi đạo luật giảm thuế “Lớn, Đẹp” (Big Beautiful Act) mà
ông Trump ký ban hành hôm 4 Tháng Bảy.
Có điều,
toàn bộ số tiền thuế nhập cảng thu được là tiền lấy từ túi của người tiêu dùng
Mỹ, chẳng phải là tiền của Trung Quốc, của Ấn Độ hay của bất cứ đối tác thương
mại nước ngoài nào. Ở đây, thuế quan đã lấy tiền của người Mỹ đưa vào ngân khố
rồi dùng số tiền đó để giảm thuế cho các doanh nghiệp và tầng lớp thượng lưu
trong xã hội – một cuộc cách mạng “Robin Hood ngược,” lấy của người nghèo chia
cho người giàu!
Lạm phát
tăng, tăng trưởng giảm, thị trường việc làm bấp bênh… kinh tế Mỹ đã đứng trước
ngưỡng cửa “đình lạm.” Những tháng tới dự báo sẽ nhiều sóng gió; hãy thắt lưng
buộc bụng và chúc nhau an lành giữa thời buổi nhiễu nhương. [qd]
No comments:
Post a Comment