Posted
on 09/08/2025 by Boxit VN
https://boxitvn.online/?p=94600#more-94600
Lại
nói về vé tham quan. Sau khi mua vé, đi qua cổng, từng người một. Soi kỹ, đóng
dấu đỏ trước khi khách được bước vào trong. Chỗ này giống cửa an ninh sân bay về
độ nghiêm, nhưng khác là chỉ đối với tấm vé, còn khách mang gì vào hay không,
có gì nguy hiểm không, thì không ai để ý và quan tâm đến.
***
Cách
đây 3 năm, nhân vụ cắm biển yêu cầu mua vé trước khi vào tham quan di tích lịch
sử cầu Hiền Lương, tôi đã viết bài “Đừng làm tiền lịch sử” đăng trên báo Nông
nghiệp Việt Nam. Ở đó, cũng như tác giả Trần Đức Anh Sơn, tôi so sánh giá
vé và cách ứng xử với người dân giữa Việt Nam và các nước trên thế giới đối với
vấn đề tham quan di tích lịch sử của mỗi quốc gia.
Và
sau đó, xin trích: “Còn chúng ta, chúng ta kinh doanh lịch sử của mình với
chính con cháu mình trên khắp đất nước. Những nơi là di tích do cha ông để lại
chúng ta đều thu tiền hậu thế. Điều này thật hài hước và mỉa mai, nhất là khi
Quốc hội phản đối và đã buộc đưa môn Lịch sử vào nhóm bắt buộc trong khi chương
trình giáo dục phổ thông mới đã được ban hành cách đây 4 năm, bằng cách nhân
danh ý nghĩa và vai trò của môn học này. Nhưng trong lúc đó, lại vẫn dựng “BOT
lịch sử” dọc miền đất nước.
Tình
yêu lịch sử và giá trị lịch sử phải chăng chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi? Khi
ngay cả đến cầu Hiền Lương – biểu tượng của nỗi đau chia cắt đất nước suốt 20
năm – mà cũng bị biến thành một món hời thì làm sao tránh được ý nghĩ về sự giả
dối trong rất nhiều những tuyên bố và nhân danh của quý vị?
Phải
chăng đã đến lúc cần xác lập những nguyên tắc và đạo lý căn bản, như di sản
thiên nhiên và lịch sử của quốc gia dân tộc là tài sản chung của tất cả con dân
Việt Nam – những người đã sống và chết/ giản dị và bình tâm/ Nhưng họ làm ra đất
nước (Nguyễn Khoa Điềm) – về cơ bản phải được thụ hưởng mà không cần phải nộp bất
cứ thứ tiền nào, ngoài dịch vụ mà họ sử dụng? Việc bảo vệ các di sản ấy cần lấy
từ ngân sách (cũng là tiền thuế dân). Chúng ta không thể kinh doanh quá khứ của
chính mình bằng cách bán sự hiểu biết và hình ảnh ấy cho con cháu mình nữa.
***
1.
Gia
đình tôi vừa có chuyến đi thăm cố đô Huế. Vì tôi từng có 6 năm học ở xứ thần
kinh, nên tự nhận là “thổ địa”, làm “tua-gai” cho cả nhà 4 người. Một số địa điểm
“phải đến” là Đại nội, lăng các vị vua…
Thú
thật, ngày xưa đi học, nghèo, một vé vào Đại nội hay lăng tẩm là cả một vấn đề.
Vì thế, tôi cũng chỉ mới đi thăm được cung điện, lúc ấy hình như 30 hay 35
nghìn đồng (một tháng, con nhà nông dân như chúng tôi được bố mẹ cho khoảng 500
nghìn đồng để lo tất cả chi phí sinh hoạt, sách vở…).
Nay
dẫn cả nhà vào cổng, giật mình, giá vé mỗi người là 200 nghìn, hai đứa trẻ 13
tuổi cũng 200 nghìn như người lớn. Người xếp hàng mua vé đông kín, phải chờ khoảng
20 phút mới có vé trên tay; sau đó đi qua cổng soát vé nghiêm ngặt mới bước được
vào trong Đại nội. Lăng vua Khải Định hay Tự Đức thì 150 nghìn. Vé qua cổng của
3 nơi ấy thôi là 2 triệu đồng.
Tôi
nhớ đến bài viết mới đây của Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn trên VnExpress khi ông so
sánh giá vé tại các di tích lịch sử ở Huế với giá bia Huda. Trong khi ở nhiều
nước, cả nước nghèo lẫn nước giàu, đều miễn phí hoặc bán vé rất thấp cho người
dân của họ, thì giá vé ở Việt Nam (nếu so với giá bia) sẽ đắt gấp hơn 30 lần
Hàn Quốc! (Bài của TS Sơn: https://vnexpress.net/lon-bia-va-gia-ve-di-san-4919393.html)
Lại
nói về vé tham quan. Sau khi mua vé, đi qua cổng, từng người một. Soi kỹ, đóng
dấu đỏ trước khi khách được bước vào trong. Chỗ này giống cửa an ninh sân bay về
độ nghiêm, nhưng khác là chỉ đối với tấm vé, còn khách mang gì vào hay không,
có gì nguy hiểm không, thì không ai để ý và quan tâm đến.
2.
Vào
trong các di tích, dáo dác nhìn quanh thì thấy những tấm bảng in mã QR có hình
chiếc tai nghe, tôi hiểu rằng quét camera điện thoại vào đó thì sẽ nghe/xem được
hướng dẫn về nơi mình đang tham quan. Tôi quét, một cửa sổ hiện ra nhưng bị
khóa. Muốn mở khóa thì phải trả 80 nghìn đồng. Tôi chấp nhận trả tiền để xem
trong đó có gì. Là những file audio ngắn chừng vài phút, giới thiệu sơ sài về từng
hạng mục. Tại lăng của các vua cũng thế, cũng mã quét, nhưng giá tiền ít hơn,
50 nghìn đồng.
Các
ứng dụng giới thiệu này chỉ được sử dụng trong vòng 8 giờ đồng hồ kể từ lúc nạp
tiền. Sau 8 giờ nếu chưa nghe xong thì đành chịu, muốn nghe tiếp thì phải nạp
tiền lại như ban đầu. Đêm về, tôi nạp tiền để nghe, nhưng vì sơ sài và không có
gì hấp dẫn nên đã bỏ dở, sáng ra không mở lại được nữa.
Nếu
khách cần hướng dẫn viên thì sẽ mua vé riêng, 200 nghìn. Có một đoàn khách đi
vào sau chúng tôi và có vé hướng dẫn viên. Họ nhanh chóng đi qua và kết thúc rất
lâu trước khi chúng tôi quay ra. Nghĩa là hướng dẫn viên cũng làm việc rất “khẩn
trương”.
Dường
như ở những nơi di tích này thứ vang lên và đọng lại nhiều nhất là “vé vé vé” –
tức “tiền tiền tiền”. Khó nhìn thấy một nụ cười trên gương mặt, từ người bán vé
đến gác cổng và nhân viên bảo vệ. Tất cả đều căng thẳng, không ai chào ai,
không ai tỏ một cử chỉ lịch sự như đang làm dịch vụ như ta có thể được thấy từ
cửa hàng điện thoại di động, điện máy xanh, đại lý xe máy…
Ở
lăng vua Tự Đức, trong lúc chờ người nhà mua vé, tôi đùa hỏi người soát vé rằng,
tôi hết tiền rồi, có thể xin vào được không. Người đàn ông trả lời là không. Vậy
phải làm sao mới được miễn phí? Phải làm đơn về địa phương xin xác nhận. Tôi hỏi
là hộ nghèo thì sao? Hộ nghèo cũng phải làm đơn và phải được chấp thuận…
3.
Chúng
tôi tới vườn An Hiên, một khu nhà vườn truyền thống nổi tiếng bậc nhất ở Huế.
Trước đây, vườn mở cửa tự do, nhưng năm 2018 nó đã được bán cho một ông chủ người
Hà Nội, từ đó họ cũng bán vé tham quan.
Giá
vé là 50 nghìn đồng. Chúng tôi 4 người, hết 200 nghìn. Cô nhân viên ra tận cổng
chào và giới thiệu, mời chúng tôi vào. Trong khu nhà vườn cổ kính này có tiết mục
Ca Huế. Khi chúng tôi đến, hai ca nương và hai nhạc công cúi chào, giới thiệu
và bắt đầu những làn điệu dân ca. Sau mỗi bài, họ giới thiệu bài mới và ca hát
rất nhập tâm.
Sau
tiết mục Ca Huế, chúng tôi được mời vào ngồi ở chiếc bàn rất trang trọng của
ngôi nhà rường cổ là trung tâm của khu vườn. Cô nhân viên đứng giới thiệu về lịch
sử, kiến trúc của ngôi nhà và trả lời những thắc mắc của chúng tôi. Sau đó, cả
nhà đi thăm vườn, khung cảnh thanh bình.
Tất
cả các “dịch vụ” trên, từ Ca Huế đến hướng dẫn viên đều chỉ dành cho gia đình
tôi, không có khách nào khác nữa. Nghĩa là nếu tôi đi một mình, họ cũng sẽ làm
tất cả những việc ấy.
Tuy
không phải đã làm thật tốt mọi thứ, nhưng so với nơi các di tích lịch sử do nhà
nước quản lý, đó là hai phong cách, hai lối làm việc và hai văn hóa.
4.
Một
buổi khác, tôi lang thang Vĩ Dạ, ghé vào thăm phủ Tuy Lý Vương. Ngay cổng là một
chị ngồi bán đồ ăn (hình như là bún hến). Chúng tôi hỏi rằng có thể vào bên
trong không, người phụ nữ đen đúa khắc khổ liền nở nụ cười tươi, nói bằng một
giọng rất sang, mời chúng tôi vào trong. Tôi không biết chị có phải người nhà của
Phủ hay không nhưng cách ứng xử và giao tiếp này thì khó là của một người xa lạ.
Chúng
tôi vào trong, cả hai tòa nhà đều khóa cửa. Đi dạo quanh sân, thấy vườn tược
không được chăm sóc, cây cành, ống nước, gạch ngói vỡ lộn xộn lẫn với cỏ dại. Đứng
ngẩn ngơ một lúc, bỗng có người đàn ông ăn mặc như bao người lao động bình thường
khác, đã luống tuổi, dáng người gầy nhỏ, tóc đã bạc, từ trong căn nhà bên cạnh
đi sang. Ông giới thiệu là cháu 5 đời của cụ Tuy Lý Vương. Ông mở cửa cho chúng
tôi vào hai ngôi nhà rường nay đã làm nhà thờ. Ngay giữa nhà, nơi trang trọng
nhất là tấm bảng lồng khung kính “Công nhận di tích lịch sử – văn hóa” cho khu
mộ và từ đường nhà thơ Tuy Lý Vương, do Bộ VH-TT-TT và DL cấp năm 1991. Ông chỉ
từng chi tiết, giới thiệu cặn kẽ về mọi thứ bằng một giọng nói rất nhẹ và khuôn
mặt hiền từ.
Trời
oi nóng, căn nhà khóa cửa chắc nhiều ngày trở nên ngột ngạt, mồ hôi tôi đổ ra,
rịn khắp người. Tôi chỉ lên chiếc chậu thau nhựa lớn đang gác trên xà nhà, hỏi
ông là tại sao nó nằm ở đó. Ông nói nhà bị dột, đặt lên để hứng nước mưa. Ông
nói, gia đình ông đã nhiều lần làm đơn xin nhà nước tu sửa và chi phí để chăm
sóc di tích, nhưng bặt vô âm tín, đến nay thì nản rồi. Được công nhận là di
tích quốc gia đồng nghĩa với việc mất chủ quyền và cũng không được gì cả. Tự ý
sửa chữa sẽ phạm luật. Ông còn kể rằng, khu lăng mộ cụ Tuy Lý Vương rộng lớn
nay đã bị “người ta” chiếm gần hết, và xây nhà ở kín xung quanh, gia đình cũng
làm đơn mãi rồi, nhưng vô vọng, không ai giải quyết cả.
Tôi
tự hỏi, ở Huế – thành phố di sản, hiện có bao nhiêu tài sản vô giá của đất nước
đang bị đối xử lạnh lẽo như nơi này? Chính quyền Thành phố cần kiểm tra, xác
minh, thống kê và có giải pháp kịp thời, trước khi mọi thứ tàn lụi theo thời
gian nghiệt ngã.
Tạm
biệt ngôi từ đường và người đàn ông nhỏ thó có giọng nói hiền từ và ánh mắt
nhân hậu ấy, chúng tôi ra đi mà lòng trĩu nặng. Tôi tự hỏi, phải chăng di tích
chỉ được để mắt đến khi “khai thác”, còn không thì cứ tàn lụi dần với thời
gian?
5.
Cách
đây 3 năm, nhân vụ cắm biển yêu cầu mua vé trước khi vào tham quan di tích lịch
sử cầu Hiền Lương, tôi đã viết bài “Đừng làm tiền lịch sử” đăng trên báo Nông
nghiệp Việt Nam. Ở đó, cũng như tác giả Trần Đức Anh Sơn, tôi so sánh giá vé và
cách ứng xử với người dân giữa Việt Nam và các nước trên thế giới đối với vấn đề
tham quan di tích lịch sử của mỗi quốc gia.
Và
sau đó, xin trích: “Còn chúng ta, chúng ta kinh doanh lịch sử của mình với
chính con cháu mình trên khắp đất nước. Những nơi là di tích do cha ông để lại
chúng ta đều thu tiền hậu thế. Điều này thật hài hước và mỉa mai, nhất là khi
Quốc hội phản đối và đã buộc đưa môn Lịch sử vào nhóm bắt buộc trong khi chương
trình giáo dục phổ thông mới đã được ban hành cách đây 4 năm, bằng cách nhân
danh ý nghĩa và vai trò của môn học này. Nhưng trong lúc đó, lại vẫn dựng “BOT
lịch sử” dọc miền đất nước.
Tình
yêu lịch sử và giá trị lịch sử phải chăng chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi? Khi
ngay cả đến cầu Hiền Lương – biểu tượng của nỗi đau chia cắt đất nước suốt 20
năm – mà cũng bị biến thành một món hời thì làm sao tránh được ý nghĩ về sự giả
dối trong rất nhiều những tuyên bố và nhân danh của quý vị?
Phải
chăng đã đến lúc cần xác lập những nguyên tắc và đạo lý căn bản, như di sản
thiên nhiên và lịch sử của quốc gia dân tộc là tài sản chung của tất cả con dân
Việt Nam – những người đã sống và chết/ giản dị và bình tâm/ Nhưng họ làm ra đất
nước (Nguyễn Khoa Điềm) – về cơ bản phải được thụ hưởng mà không cần phải nộp bất
cứ thứ tiền nào, ngoài dịch vụ mà họ sử dụng? Việc bảo vệ các di sản ấy cần lấy
từ ngân sách (cũng là tiền thuế dân). Chúng ta không thể kinh doanh quá khứ của
chính mình bằng cách bán sự hiểu biết và hình ảnh ấy cho con cháu mình nữa.
Làm
điều đó chính là hành động thực tế để chứng tỏ rằng những người có trách nhiệm
đang thực lòng trân trọng, đề cao và giáo dục lịch sử của dân tộc cho hậu thế.
Bằng không, mọi thứ sẽ luôn bị hiểu là hô hào và mượn cớ.
Đừng
để con cháu phải nghĩ rằng hình như ngoài tiền ra thì “các cấp các ngành” không
thật lòng tôn vinh điều gì cả.” (Xem toàn văn: https://nongnghiepmoitruong.vn/dung-lam-tien-lich-su…)
Cần
có một cái nhìn rộng hơn, sâu hơn trong cư xử với lịch sử của đất nước. Huế và
mọi nơi trên khắp miền Tổ quốc, giữ được di tích là giữ được cả một kho tàng,
nó có thể nuôi sống người dân, giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, hun đúc tình
yêu với di sản và truyền thống dân tộc. Đừng thiển cận chỉ nhìn thấy mỗi tiền
trong túi con dân mình.
Thầy
tôi kể, khi thầy qua Pháp dạy học, chỉ cần đưa cái thẻ giáo viên ra thì có thể
vào bất cứ bảo tàng lừng lẫy nào (chứ đừng nói đến học sinh), vì theo họ, giáo
viên hiểu biết thì học trò được lợi, xã hội được lợi.
Còn
chúng ta, chúng ta thu tiền từ người lao động nghèo đến những đứa trẻ 13 tuổi với
“giá cắt cổ” khi họ đi thăm nơi cha ông mình đã sống, làm việc và an nghỉ, thì
chính chúng ta sẽ bị tương lai quay lưng. Không thể khác được và cũng không thể
trách ai được.
Hình:
chiếc thau nhựa hứng nước mưa trên xà nhà từ đường Tuy Lý Vương
T.H.
Tác
giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment