Kinh tế Mỹ như con ếch ngồi trong nồi nước nóng dần
Trúc Phương/Người Việt
August
9, 2025 : 7:02 PM
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/kinh-te-my-nhu-con-ech-ngoi-trong-noi-nuoc-nong-dan/
Tăng trưởng
bất ngờ 3% trong quý 2 đang khiến ông Donald Trump, tổng thống Mỹ, ăn mừng,
nhưng giới kinh tế cảnh báo: đó chỉ là ảo ảnh nhất thời. Những rạn nứt ngầm từ
chính sách thuế quan, thị trường lao động suy yếu, tiêu dùng giảm tốc và sự lệch
pha giữa tài chính và thực tế đang khiến nền kinh tế Mỹ giống như con ếch ngồi
trong nồi nước đang nóng dần lên.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/08/A1-Kinh-te-My-nong-1920x1280.jpg
Ông
Donald Trump (phải), tổng thống Mỹ, thảo luận về dữ liệu kinh tế với ông
Stephen Moore, thuộc viện nghiên cứu Heritage Foundation, người giúp ông Trump
đưa ra chương trình cải tổ thuế trong thời gian tranh cử nhiệm kỳ đầu, tại
Phòng Bầu Dục ở Washington, DC ngày 7 Tháng Tám, sau khi ông Trump sa thải bà
Erika McEntarfer, giám đốc Cơ Quan Thống Kê Lao Động (BLS) thuộc Bộ Lao Động,
vì phúc trình việc làm giảm. (Hình: Win McNamee/Getty Images)
Lạc
quan ảo trên nền tảng mong manh
Ngày
1 Tháng Tám, Bộ Thương Mại Mỹ công bố GDP quý 2, 2025 tăng trưởng 3% – vượt xa
dự báo 2% của giới phân tích. Tổng Thống Trump ngay lập tức khoe chiến tích
trên mạng xã hội Truth Social: “GDP quý 2 đạt 3%! Tốt hơn nhiều so với kỳ vọng.
Không có lạm phát!”…
Tuy
nhiên, các chuyên gia kinh tế nhìn con số 3% bằng con mắt thận trọng. Theo họ,
đây chỉ là cú bật kỹ thuật sau cú sụt 0.5% của quý 1 – thời điểm doanh nghiệp Mỹ
ồ ạt nhập cảng để tránh các mức thuế mới. Nhập cảng tăng khiến GDP bị trừ mạnh
(do nhập cảng là số âm trong công thức tính GDP), tạo nên mức giảm bất thường.
Khi
cơn sốt nhập cảng qua đi, quý 2 bật lại là điều đã được dự đoán – nhưng mức bật
quá mạnh lại khiến nhiều người ảo tưởng. Bà Kathy Bostjancic, kinh tế trưởng tại
Nationwide, nhận xét: “Các con số bề nổi đang che giấu sự suy yếu thực sự của nền
kinh tế. Thuế quan đang dần cắn vào hoạt động kinh tế.”
Một
trong những rạn nứt lớn nhất nằm ở thị trường lao động. Dù tỷ lệ thất nghiệp
chính thức vẫn ở mức thấp 4.2%, nhưng điều này phần nhiều là do tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động giảm xuống mức thấp nhất từ 2022.
Từ
Tháng Hai, nền kinh tế Mỹ tạo ra 671,000 việc làm, nhưng 2/3 trong số đó đến từ
các ngành ít năng động như y tế, chính phủ và giáo dục. Nghiên cứu của ông
Peter Berezin từ BCA Research cho thấy thị trường lao động Mỹ đang gần đến điểm
mà nếu nhu cầu giảm thêm, tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng mạnh.
Cho
đến nay, các nhà tuyển dụng Mỹ chủ yếu phản ứng với bất ổn cao và môi trường
lãi suất bằng cách đóng các vị trí tuyển dụng. Có những lo ngại về dữ liệu việc
làm của Mỹ, một phần do tỷ lệ trả lời khảo sát giảm.
Tháng
Bảy, số người thất nghiệp dài hạn (trên 27 tuần) lên tới 1.8 triệu – mức cao nhất
kể từ 2017 (không tính thời kỳ COVID-19). Bà Jennifer Smith, một giám đốc ở
Florida, cho biết bà đã gửi hơn 900 hồ sơ xin việc trong 10 tháng mà không nhận
được lời mời phỏng vấn nào. Cuối cùng, bà phải bán nhà để cầm cự (theo
“Unemployed Americans Endure Longer Job Searches in a Cooling Market,” Wall
Street Journal, 2 Tháng Tám).
Tình
trạng này đặc biệt tồi tệ với người lao động trung niên, những người bị cơn
sóng trí tuệ nhân tạo (AI) tấn công. Họ rơi vào trạng thái bán thất nghiệp, sống
lay lắt qua từng tháng. Một phần nguyên nhân nữa là chính sách siết nhập cư của
chính quyền Trump – vốn làm giảm nguồn nhân lực và khiến thị trường việc làm trở
nên méo mó.
Nhà
giàu cũng rón rén trong thận trọng
Hậu
đại dịch, tiêu dùng Mỹ tăng mạnh nhờ tiết kiệm dư thừa và giới nhà giàu chi
tiêu mạnh tay. Nhóm 20% thu nhập cao nhất chiếm tới hơn 60% tổng chi tiêu cá
nhân. Nhưng giờ đây, ngay cả họ cũng đang thận trọng. Ông Mark Zandi thuộc
Moody’s Analytics cảnh báo: “Giá cả tăng vì thuế sẽ đè nặng lên người nghèo
hơn, nhưng khi giới giàu cũng dè chừng, sức mua sẽ lao dốc nhanh chóng.”
Dữ
liệu từ Pantheon Macroeconomics cho thấy các khoản tiết kiệm dư sau COVID-19 gần
như đã cạn. Trong khi đó, thuế quan và lạm phát đang lặng lẽ ăn mòn thu nhập thực
tế. Tiêu dùng thực (sau khi điều chỉnh lạm phát) đã giảm liên tiếp trong nhiều
tháng. Những người thu nhập thấp bị ảnh hưởng nặng nhất, nhưng điều đáng ngại
là tầng lớp trung lưu và thượng lưu cũng bắt đầu co cụm.
Một
trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất với lãi suất là bất động sản. Theo ông Mark
Zandi, “nhà đất luôn là lĩnh vực báo hiệu suy thoái sớm nhất.” Và các tín hiệu
xấu đang xuất hiện.
Tỷ
lệ người mua lần đầu bây giờ phải dành hơn 40% thu nhập để trả nợ vay – vượt mức
đỉnh năm 2006, ngay trước khủng hoảng tài chính toàn cầu. Số lượng nhà tồn kho
chưa bán cũng tăng lên mức cao nhất từ 2009. Lãi suất vay thế chấp cố định 30
năm trên 6% đang trở thành điều “bình thường mới.” Lý do khiến khủng hoảng chưa
nổ ra là vì đa số người Mỹ vay theo lãi suất cố định, nên tác động chậm. Nhưng
tác động ấy đang dần hiện hình.
S&P
500 đang ở mức kỷ lục nhưng chỉ số này không còn là tấm gương phản chiếu trung
thực của kinh tế Mỹ. Hơn 40% lợi nhuận của các công ty trong chỉ số này đến từ
thị trường quốc tế. Các “ông lớn” công nghệ – nhóm “Magnificent Seven” – đang đẩy
chỉ số lên trời, che lấp sự suy yếu của phần còn lại.
Trong
khi đó, chỉ số S&P 600 – đại diện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bám sát
nhu cầu nội địa – đã giảm kể từ khi ông Trump tái nhiệm. Điều này cho thấy sự lệch
pha ngày càng lớn giữa Phố Wall (Wall Street – thị trường chứng khoán) và Phố
Chính (Main Street – thị trường thực tế).
Giới
đầu tư vẫn tin rằng ông Trump tiếp tục “giơ cao đánh khẽ” – với chiến thuật được
gọi mỉa mai là “TACO” (Trump Always Chickens Out). Nhưng nếu ông Trump thật sự
thực hiện toàn bộ lời đe dọa thuế quan, ảnh hưởng từ đòn hồi mã thương sẽ rất mạnh.
Tính
đến ngày 1 Tháng Tám, thuế nhập cảng hiệu lực trung bình của Mỹ là 17.5% – cao
gấp bảy lần mức trước nhiệm kỳ hai của ông Trump. Đây là mức cao nhất kể từ Đệ
Nhị Thế Chiến. Đúng là ông Trump đã buộc EU, Nhật, Việt Nam và một loạt nước
khác phải ký các thỏa thuận thương mại với Mỹ, chấp nhận thuế 15%-20%, đổi lại
là quyền tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng nhiều thỏa thuận còn mơ hồ, chưa có chi
tiết rõ ràng, và phần lớn là kết quả của đàm phán ép buộc.
Bà
Mary Lovely thuộc Viện Peterson cảnh báo: “Tác hại không đến ngay, mà sẽ tích tụ
dần như một dạng âm ỉ. Doanh nghiệp Mỹ phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng, tìm
nguồn hàng mới, thay đổi thiết kế sản phẩm… tất cả đều là chi phí ngầm.”
Dự
báo u ám và nguy cơ khủng hoảng
Nền
kinh tế Mỹ đang được chống đỡ bởi kỳ vọng vào công nghệ, niềm tin vào thị trường
và… chính sách bất định. Con số 3% tăng trưởng GDP quý 2 không phải là dấu hiệu
của một nền kinh tế khỏe mạnh. Đó chỉ là sự cộng dồn của nhiều yếu tố nhất thời
– từ giảm nhập cảng do hết hàng tồn kho, đến tiêu dùng chưa kịp co cụm.
Cần
nhấn mạnh, chương trình thuế quan đầy đủ của ông Trump chưa được thực hiện toàn
bộ. Theo dữ liệu từ Yale Budget Lab, tỷ lệ thuế quan hiệu quả trung bình của Mỹ
hiện là 16.6%, và từ ngày 1 Tháng Tám – hạn chót mới nhất của ông Trump để áp
các khoản thuế “tương hỗ” – sẽ tăng lên 20.6%, gấp bảy lần so với năm 2024.
Tuy
nhiên, việc chuyển chi phí cao hơn vào nền kinh tế thực chưa được tính đầy đủ,
đơn giản các công ty vẫn sử dụng tồn kho trước thuế quan. Nhưng khoảng cách giữa
giá bán lẻ của hàng hóa chịu thuế và hàng không chịu thuế đang mở rộng, theo dữ
liệu từ Harvard Business School’s Pricing Lab. Khi tồn kho cạn kiệt, giá cả sẽ
tăng dựa trên các khoản thuế hiện hành. Các nhà phân tích tin rằng hầu hết tồn
kho sẽ hết vào mùa hè.
Có
lý do khiến nền kinh tế Mỹ chưa rơi vào thảm họa. Tính chất nóng-lạnh của cuộc
chiến thuế quan khiến nhà đầu tư kỳ vọng có thêm thỏa thuận để tránh các mối đe
dọa tồi tệ nhất. Các khoản thuế quan khắc nghiệt nhất chỉ vừa có hiệu lực, nên
tác động chưa lộ rõ. Một khi các quốc gia đáp trả, thương mại quốc tế sẽ rơi
vào vòng xoáy tồi tệ hơn. Trong khi đó, các doanh nghiệp, nhận thức được sự thất
thường của ông Trump, đã chuẩn bị hằng tháng để tránh kịch bản xấu nhất.
Gút
lại, chính sách thuế quan của ông Trump, dù có thể mang lại lợi ích ngắn hạn
như tăng doanh thu cho kho bạc hay bảo vệ một số ngành công nghiệp nội địa,
nhưng nguy cơ gây ra lạm phát và làm chậm tăng trưởng dài hạn là không thể xem
nhẹ.
Nếu
ông Trump tiếp tục đẩy cao cuộc chiến thuế quan, đòn trả đũa sẽ không chỉ đến từ
đối tác thương mại mà còn từ chính bên trong nước Mỹ: Người tiêu dùng, doanh
nghiệp, người lao động và thị trường tài chính. một cách tổng quát, nguy cơ suy
thoái – hoặc ít nhất là một giai đoạn tăng trưởng chậm chạp với lạm phát dai dẳng
– là rất cao. [qd]
No comments:
Post a Comment