Từ
xung đột thế kỷ Israel và Palestine - Kỳ 2: Người Do Thái và hành trình trở lại
đất Thánh
HOÀNG DẠ LAN - Luật
Khoa Tạp Chí
NOV 22,
2023 11:08 AM
https://www.luatkhoa.com/2023/11/hoi-giao-do-thai-va-cuoc-xung-dot-the-ky-israel-palestine-ky-2/
Xây
dựng một xã hội văn minh, đa dạng để chấm dứt xung đột.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/format/webp/2023/11/Palestine-Israel-002.png
Đồ họa:
Shiv/ Luật Khoa.
Ở Việt Nam
hiện nay, các diễn ngôn về người Do Thái hầu hết đều tích cực. Họ thường được
đánh giá là thông minh, tháo vát, có khả năng kinh doanh xuất sắc và có nhiều
đóng góp cho nhân loại. Việc sáu triệu người Do Thái bị diệt chủng trong Thế
chiến thứ hai cũng tạo ra mối đồng cảm sâu sắc trong nhiều người Việt, cho rằng
họ xứng đáng có một quốc gia riêng. Tuy nhiên, trái với tình hình ở Việt Nam,
diễn ngôn về người Do Thái trong suốt chiều dài lịch sử thường mang nhiều ý
nghĩa tiêu cực.
Trên
phương diện tôn giáo và lịch sử, chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) đã xuất
hiện từ buổi bình minh của Cơ Đốc giáo. Người Do Thái bị xem là những kẻ phản
Chúa và phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Chúa Jesus. Người Do Thái cũng bị
người Cơ Đốc giáo lên án vì không công nhận Jesus là con của Thiên Chúa. Vào thời
Trung cổ ở châu Âu, trong khi Cơ Đốc giáo cấm việc tính lãi trên các khoản vay,
người Do Thái không bị ràng buộc bởi các quy định này. Nhiều người Do Thái làm
nghề cho vay lãi hoặc buôn bán, tạo ra sự cạnh tranh kinh tế và ghen tị từ cộng
đồng Cơ Đốc giáo. [1]
Joseph-Arthur
Gobineau (1816-1882), nhà nghiên cứu và nhà ngoại giao người Pháp, được xem là
cha đẻ của thuyết phân biệt chủng tộc hiện đại. Công trình tai tiếng nhất của
ông, “Bài luận về sự bất bình đẳng của các chủng tộc loài người”, xuất bản
lần đầu năm 1853, lập luận rằng thành phần chủng tộc là nguyên nhân chính ảnh
hưởng đến sự thịnh suy của một nền văn minh. Gobineau cho rằng người da trắng,
đặc biệt là chủng tộc Aryan (chủ yếu bao gồm người Đức và những người có nguồn
gốc Bắc Âu) là cao quý và vượt trội hơn so với các chủng tộc khác. Trong khi
đó, người Do Thái bị xem là kém sáng tạo. Ông lập luận sự pha trộn chủng tộc
khiến cho sự “thuần khiết” của chủng tộc thượng đẳng mất đi, đây được xem là
nguồn gốc của sự suy đồi và sụp đổ các nền văn minh. [2]
Sau này,
các tác phẩm của Richard Wagner và Houston Stewart Chamberlain tiếp tục mô tả
người Do Thái là xấu xa, gây hại và tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đối với văn minh
phương Tây. Các tác phẩm này cung cấp cơ sở lý luận cho Đức Quốc xã thực hiện
diệt chủng người Do Thái trong Thế chiến thứ hai.
Đứng trước
sự hoành hành của chủ nghĩa bài Do Thái tại châu Âu, chủ nghĩa phục quốc Do
Thái (Zionism) xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 với mục tiêu là tạo ra quê hương
cho người Do Thái. Thuật ngữ Zionism xuất phát từ “Zion”, tên một ngọn đồi ở
Jerusalem, biểu tượng quê hương lịch sử của người Do Thái. Những người theo chủ
nghĩa phục quốc Do Thái tin rằng cần thành lập một quốc gia Do Thái để bảo đảm
an toàn và quyền tự quyết cho người Do Thái, tránh xa khỏi sự phân biệt chủng tộc
và bạo lực mà họ phải đối mặt ở châu Âu. Phong trào Zionism dẫn đến việc thành
lập quốc gia Israel tại Trung Đông vào năm 1948.
Chủ nghĩa
phục quốc Do Thái mang ý nghĩa rất tiêu cực trong thế giới Ả Rập vì nó gắn liền
với việc thành lập nhà nước Israel vào năm 1948 và sự di tản của hàng trăm
nghìn người Palestine khỏi làng mạc và nhà cửa của mình. Sự kiện này còn được gọi
là Nakba, có nghĩa là thảm họa trong tiếng Ả Rập. Việc Israel tiếp tục
chiếm đóng các khu vực ở Bờ Tây và Đông Jerusalem, cũng như việc mở rộng các
khu định cư Do Thái trong những vùng này bị nhiều người Ả Rập xem là hệ quả trực
tiếp của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, với mục đích xây dựng một đất nước Israel
rộng lớn hơn trước sự trả giá nặng nề của người Palestine.
Căng thẳng
kéo dài liên quan đến cuộc xung đột Israel-Palestine khiến chủ nghĩa bài Do
Thái dâng cao trong thế giới Ả Rập. Hàng trăm ngàn người Do Thái sinh sống tại
các quốc gia Ả Rập đã bị trục xuất hoặc phải di cư khỏi các nước này.
Cuộc
xung đột Israel – Palestine
Cuộc xung
đột Israel – Palestine hoặc rộng hơn là cuộc xung đột giữa khối Ả Rập và Israel
bắt nguồn từ cuộc tranh chấp một dải đất ở Trung Đông, nằm giữa biển Địa Trung
Hải và sông Jordan. Jerusalem đóng vai trò quan trọng trong cuộc xung đột này
vì đây là được xem là “đất Thánh”, địa điểm linh thiêng với ba tôn giáo lớn
trên thế giới là Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, và Do Thái giáo.
Người Do
Thái tuyên bố chủ quyền với dải đất này dựa vào các lời hứa trong Kinh Thánh
Hebrew với Abraham và con cháu của ông. Họ xem đây là dải đất lịch sử của các
vương quốc Do Thái cổ đại Israel và Judea. Họ cũng cần một nơi trú ẩn an toàn
trước sự truy bức của chủ nghĩa bài Do Thái ở châu Âu.
Trong khi
đó, người Ả Rập Palestine khẳng định chủ quyền với dải đất dựa vào thực tế là họ
đã sinh sống liên tục tại đây hàng trăm năm và chiếm đa số trong cơ cấu dân cư
cho đến năm 1948. Họ không chấp nhận việc phải từ bỏ đất đai để bồi thường cho
những tội ác mà người châu Âu đã gây ra cho người Do Thái. Họ cho rằng sự tồn tại
một vương quốc trong Kinh Thánh không thể trở thành cơ sở pháp lý cho một tuyên
bố chủ quyền thời hiện đại. [3] Luật Khoa tạp chí đã có một bài viết chi tiết về
cuộc xung đột Israel – Palestine từ góc nhìn công pháp quốc tế, mời độc giả đọc
thêm tại
đây.
Về cuộc
xung đột Israel – Hamas hiện nay, hành động tàn sát dân thường Israel do Hamas
thực hiện vào ngày 7/10/2023 là vô cùng tàn bạo, đã gây ra sự phẫn nộ sâu sắc.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là hành động khủng bố của Hamas không đại diện cho
toàn bộ 2,2 triệu người dân Palestine ở dải Gaza, trong đó có một nửa là trẻ
em. [4]
Một cuộc
khảo sát của Arab Barometer ngay trước thềm cuộc chiến cho thấy trong khi mục
đích của Hamas là tiêu diệt nhà nước Israel, hầu hết người dân Gaza ủng hộ giải
pháp hai nhà nước, nhằm hướng tới việc cùng tồn tại trong hòa bình và chấm dứt
xung đột giữa các phe phái. [5] Ngoài ra, khi được hỏi về mức độ tin tưởng mà
người dân Gaza dành cho chính quyền do Hamas lãnh đạo, 44% số người tham gia khảo
sát cho biết họ không có chút tin tưởng nào, trong khi 23% cho biết họ có ít
lòng tin vào chính quyền.
https://www.luatkhoa.com/content/images/2023/11/1-2.png
Hầu hết
người dân Gaza không có lòng tin vào chính quyền do Hamas lãnh đạo. Nguồn: Arab
Barometer Wave VIII, Gaza (2023).
Nghiên cứu
của Arab Barometer cũng cho thấy tỷ lệ ủng hộ của người dân Palestine đối với
Hamas có xu hướng tăng trong những giai đoạn Israel gia tăng trừng phạt và
phong tỏa biên giới với Gaza. Từ khi giao tranh nổ ra cho đến ngày 20/11/2023,
có ít nhất 13.000 người Palestine đã thiệt mạng, trong đó có 5.500 trẻ em, biến
Gaza trở thành “mồ chôn trẻ em”. [6] Do đó, chiến dịch quân sự hiện nay của
Israel nhằm loại bỏ Hamas có thể gây tác dụng ngược. Số lượng thương vong ngày
càng tăng, oán thù ngày càng chồng chất có thể khiến sự ủng hộ của người
Palestine đối với các nhóm Hồi giáo cực đoan như Hamas tăng lên, góp phần vào
việc leo thang của vòng xoáy bạo lực.
Đáp trả bằng
bạo lực chưa bao giờ là câu trả lời hoàn hảo để chống lại chủ nghĩa khủng bố.
Sau các cuộc tấn công khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ phát động
cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố, tiến hành đem quân vào Iraq cùng
Afghanistan và bị sa lầy ở cả hai chiến trường này. Tình hình chính trị bất ổn ở
Iraq sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ tạo môi trường thuận lợi cho sự
hình thành và phát triển của Nhà nước Hồi giáo (IS). Sự sụp đổ nhanh chóng của
chính quyền Kabul do phương Tây hậu thuẫn và quá trình rút quân thảm hại khỏi
Afghanistan sau 20 năm đưa quân sang tham chiến khiến Hoa Kỳ tổn hại cả về uy
tín quân sự lẫn ngoại giao. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy hầu hết những chiến dịch
quân sự đáp trả lại các cuộc tấn công khủng bố thường gây ra những cuộc chiến
kéo dài, thương vong cao, và lại càng làm gia tăng nguy cơ khủng bố. [7]
Do đó, đối
với cuộc xung đột Israel – Hamas hiện nay, về lâu dài cần có các giải pháp về
chính trị và ngoại giao để xuống thang xung đột, tiến tới thỏa thuận ngừng bắn
và trao đổi con tin. Trong giai đoạn hậu xung đột, Tổ chức Giải phóng Palestine
(PLO) và Chính quyền Palestine (PA) cần có các cải tổ mạnh mẽ để đoàn kết các lực
lượng, tạo ra sức mạnh đấu tranh cho người Palestine theo con đường đàm phán
hòa bình. Israel cũng cần phải chính thức công nhận quyền của người Palestine đối
với một quốc gia độc lập trên lãnh thổ mà Israel đã chiếm đóng từ năm 1967. [8]
Vài
suy ngẫm về cuộc tranh luận Israel – Palestine tại Việt Nam
Người viết
đã trải qua khoảng thời gian dài học tập và làm việc ở một số quốc gia trên thế
giới. Trong hành trình đó, tôi may mắn gặp được những người bạn Hồi giáo thân
thiện, tốt bụng, và sống có lý tưởng.
Đó là một
anh bạn người Palestine với nụ cười tỏa nắng, muốn dành cả cuộc đời để nghiên cứu
tìm ra con đường giải quyết cuộc xung đột Israel – Palestine.
Đó là một
cô gái người Tunisia năng động, xinh đẹp, nói tiếng Anh chuẩn giọng Mỹ. Cô dạy
tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Ả Rập ở nhiều quốc gia trên thế giới, thành lập
một tổ chức phi chính phủ, đồng thời tham gia xây dựng các khóa học về gìn giữ
hòa bình và chuyển hóa xung đột.
Và còn một
chị bạn người Bangladesh, đầu tắt mặt tối với việc học tiến sĩ, nhưng chỉ cần
có chút thời gian rảnh thì sẽ cùng con gái học đàn, đọc sách, dẫn con đi thăm
thú các di tích lịch sử văn hóa, truyền cảm hứng để con trở thành một cô gái độc
lập và sống có đam mê.
Tôi hiểu rằng
những người bạn Hồi giáo mà tôi gặp không thể đại diện cho tất cả mọi tín đồ;
tuy nhiên, họ giúp tôi nhận thức sâu sắc rằng thế giới Hồi giáo không chỉ có những
tay súng cực đoan và những kẻ đánh bom liều chết. Đó là một thế giới đa dạng,
nhiều màu sắc, với những con người giống tôi và giống bạn, những người đang đọc
những dòng chữ này.
Đáng tiếc
là hiện tượng phân biệt chủng tộc và tôn giáo đã xuất hiện trong các cuộc tranh
luận về cuộc xung đột Israel – Palestine tại Việt Nam. Đã có những câu bình luận,
bài đăng miệt thị Hồi giáo, thánh Allah, và người theo đạo Hồi trong một bộ phận
người Việt. Việc dùng hành động cực đoan của phong trào Hồi giáo Hamas để lên
án đạo Hồi và toàn bộ 1,8 tỷ tín đồ có thể xem là một sự khái quát hóa quá mức
(over-generalization), thiếu cân nhắc đến sự đa dạng và tính phức tạp của tình
huống hay nhóm người, dẫn đến định kiến, đánh đồng và kết luận sai lầm.
Về bản chất,
những quan điểm bài Hồi giáo này không khác tuyên truyền của Đức Quốc xã về sự
hạ đẳng và bản chất xấu xa của người Do Thái. Đây là cơ sở lập luận để Đức Quốc
xã tiến hành diệt chủng sáu triệu người Do Thái trong Thế chiến thứ hai, một tội
ác mà toàn nhân loại đã đồng lòng lên án. Mặt khác, một số bình luận về sự
thông minh vượt trội của người Do Thái, cho rằng cần ủng hộ Israel để họ tiếp tục
đóng góp cho nhân loại, kỳ lạ thay, lại mang âm hưởng của chủ thuyết da trắng
thượng đẳng về một chủng tộc Aryan thần thánh, những người được coi là khai
sáng văn minh và xứng đáng có không gian sinh tồn rộng lớn.
Có lẽ đã đến
lúc chúng ta cần tự đánh giá và thách thức các định kiến của mình về chủng tộc
và tôn giáo, đặc biệt là khi tham gia vào các cuộc tranh luận về xung đột
Israel – Palestine. Chúng ta cần tránh rơi vào cái bẫy của chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc và kỳ thị tôn giáo, tô hồng phía mình ủng hộ và bôi đen phía bên kia
của cuộc chiến. Đây là nền tảng cơ bản để xây dựng một xã hội văn minh, đa dạng,
khoan dung và tôn trọng sự khác biệt.
Biên
niên sử bỏ túi về xung đột Israel – Palestine: Từ góc nhìn công pháp quốc tế
Cuộc tranh
chấp điển hình nhất, dai dẳng nhất về chủ quyền lãnh thổ.
Luật
Khoa tạp chí Nguyễn
Quốc Tấn Trung
Người
Hồi giáo, dân Do Thái, và cuộc xung đột thế kỷ Israel-Palestine
Kỳ
1: Chủ nghĩa bài Hồi giáo từ đâu mà ra?
Luật
Khoa tạp chí Hoàng Dạ Lan
No comments:
Post a Comment