03/11/2023
https://www.danchimviet.info/sach-cu-mien-nam-1954-1975/11/2023/29985/
https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2023/11/7933988006_ccc2326e84_b.jpg
Mặt tiền Nhà
Sách Khai Trí
Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6
tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè
bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và
có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết
tìm cái gì, biết mua ra sao?
Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để
tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một
việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị
và mủi lòng.
Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ
côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn.
Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như
thế.
Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi
đó, 6,7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một
cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại
cho tôi.
Kể cũng mừng và cũng buồn cười.
Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa
không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc
trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên
12, 13 tuổi. “Các cháu ngoan bác Hồ”. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường.
Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ
gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra
quân của một đoàn quân chiến thắng.
Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên
kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.
Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu
tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại
quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt
Nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng
Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó
nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán
sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các
ông bà bán ve chai.
Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được
Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.
Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có chuyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những
sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng
mỗi ngày.
Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách
miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.
Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản
thân tôi vậy.
Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa
là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo bá cáo của
Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng
6, năm 1976 là :
“Việc xây dựng nền Văn Hoá mới đuợc tiến
hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền
Nam. Đó là thứ Văn Hoá “nô dịch”, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..”[i].
Để thực hiện nghị quyết trên. Họ đã làm mọi
cách : tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ
là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản
của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền
Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền
Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.
A.- Tình hình sách cũ hồi 1975
Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt
theo là bao nhiêu? Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có
câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu
cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9- 1972, theo Ủy Hội Quốc Gia
Unesco Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất
bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000- 60.000 đầu sách
đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng.
Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn.
Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy.
Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy
số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu
cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.
Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một
bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản
trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo
Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền
Nam, với số bản là 800 triệu bản’.
Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn
đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con
số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần
Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì
tôi chịu ông.
Các ông đã bao giờ biết
nói thật chưa?.
Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8,
năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ
sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số
sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian.[ii] Con
số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao.[iii]
Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê
của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều,
nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm
sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số
của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo
là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết.
Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách
nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách.
Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì?
Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một
chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hànội. Dĩ nhiên, người ta đã
không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các
tiệm bán sách.
Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu
ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta
đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người
ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn, Nhã
Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ,
huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có
mặt.
Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất
của đời mình.
Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả
những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan
đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.
Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ
đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.
Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công
khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người
chủ mới muốn gì ? Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua,vẫn có những người
nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được
cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để
thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị,có
giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường
mới nhờ thế càng phát triển.
Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những
kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hoá
miền Nam.
Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều
ở thời điểm đó. Trên báo Đại đoàn kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam
thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua
thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy,
đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.”
Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở: “Thành
phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện
tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại”[iv]
Càng những sách bị cấm lại càng có giá trên thị
trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống
mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà
thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm
phút sau, chạy đi một lúc có liền.
Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.
Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách
đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai!! Thách đố mang tầm vóc văn học,
giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên
truyền thì không đọc.
Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp
tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được
coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng,
nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng
vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.
Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm.
Không đốt thì sách vở đó đi đâu ? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến
tên Tần thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa
và chuyện nay.
Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư
Mỹ Ngụy hết sao ? Sách nào là phản động, đồi trụy ? Vì
thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì
đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng.. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao
trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.
– Trước hết, các nhà xuất
bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.
‘
Đó là các nhà xuất bản như Tuổi thơ, Nắng sớm,
Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa
Mai, Hoa Hồng.
– Các dịch giả kiếm Hiệp sau
đây cũng bị cấm : Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ
Khánh phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
– Các tác giả có sách bị cấm toàn
bộ như : Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ,
Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn
Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lục,
Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..
Nhận xét:
– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi
này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách
giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh
và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự
tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như
trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một
cách chùy dập vô tội vạ và vô ý thức.
Các trẻ em miền Nam tự nhiên mù chữ vì không
có sách đọc.
– Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy
đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục.
Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện
kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những
chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông,
chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ
ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.
Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc..
Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình. Đến có thể nói, một trong
những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung. Xin
cos, nguoifw vieets bafi nayf, xin gioisw thieeuj moojr nhaan vaajt ddawjc
bieetj trong truyeejn Kim Dung: Nhaan vvajt Leenhj Hoof Sung
Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện
võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có
bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc
Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986,
sau khi tiến lên 4 Hiện đại hoá ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng
Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm
1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có
đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim
Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra
đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban
Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những
kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một
nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”
Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người
đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch
mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con
người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt
giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây
dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ
và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như
hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy
ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà
phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt
Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo
mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa
Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và
những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu
tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người,
hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi
còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu
Siêu, Song Nhi, v.v.. mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những
nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?
Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề
chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã
hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà
chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là
vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận
là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa
xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân
thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?
Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào
tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng,
đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống
của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ
hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn
Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.
Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.
– Về các tác giả, các nhà văn bị
xoá sổ cho thấy tính cách tổng quát hoá và khái quát hoá đồng loạt. Tỉ dụ thơ của
Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ say, Tâm sự Kẻ sang Tần thì
tại sao cấm. Gìn Vàng giữ Ngọc và Giòng sông Định mệnh của
Doãn Quốc Sĩ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa
Thiên Lý, Sa Mạc tuổi trẻ, Ngựa chứng trong sân trường, Dấu chân sỏi đá thì
chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên
Sa, Gõ đầu trẻ, Một bông hồng cho văn nghệ thì hoặc là có tác dụng
giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người
ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ *Những năm 1960*,
trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo trường với Người đàn bà
mang thai trên kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến
tranh. Bùi Giáng với Mưa nguồn, Đi vào cõi thơ là những
chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.
Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy
chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh,
Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến,
Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì
cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.
Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển
hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong
teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải
mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi : Thơ Tình.
Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi
là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu
Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.
Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn
chương như Người thầy cũ, Mười đêm ngà ngọc, Căn nhà vùng nước mặn hay
Bày thỏ ngày sinh nhật cũng vẫn bị coi là tên Biệt kích văn nghệ hàng
đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi
không còn cô độc, Bếp lửa, Cát lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại
lai thoái hoá. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện.
Duyên Anh có viết Dấu chân sỏi đá, Hoa thiên lý, Thằng Khoa, Gấu rừng,
Giặc ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.
Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập
trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều
nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó
có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp
hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng
chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết
giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được
tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có
cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở
thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.
Trong số những người sót tên trong sổ đen phải
kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng
Văn, Thích Nhất Hạnh.
Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một
sự muốn xoá trắng Văn học miền Nam.
Đó là cái tội đối với lịch sử văn học nói chung, chứ
không phải chỉ có tội đối với miền Nam nói riêng. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ
Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200 :”Theo Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức,
trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học
miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khoá 5 : Sau
ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết
và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên
trì, tích cực và triệt để.”
Về những bài viết, xin kể vài bài : Tiếp
tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hoá mới. Nọc độc văn hoá nô dịch. Những tên biệt
kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm
1954-75.
Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng
Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập,
Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.
Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học
đó không có lý do gì bị xoá trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt
văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của
một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự
do suy nghĩ, tự do sáng tác.
Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ
thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống
nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.
Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì
rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành
toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn
Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một
trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn
bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.
Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ
Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam
Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất
hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ.
Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ
không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt
gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây
trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.
Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có
lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn “Loan mắt
nhung”. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một
loài chuột chui nhúc để kiếm sống.
Hãy nghe ông kể :”Tôi về sống với mẹ
già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày “giải phóng”, bên này Cầu Bông, sau khi bị
phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà.Tôi ngậm đắng nuốt cay bước
ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản
của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm
gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con
Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ
này.
Xin đọc tiếp :” Những câu chuyện vặt
trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội
cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang
án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt
tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn
tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ
Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê
hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng
giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì
đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh
em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất
ngưỡng mộ.”
Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi.[v]
Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên
tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ
những tác phẩm của ông :”Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói
chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được”.
Chính Nguyễn Thụy Long cũng kể lại về trường hợp
có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh nước đen với
điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu. Nay
thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế
trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.
B- Tình hình sách cũ hiện nay
Về Sàigòn hôm nay, mục đích chính là chỉ ở
Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được
gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện.
Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc
theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất
ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày
bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại “sách cũ”
thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in
lại, sách cũ trở thành “sách mới”, bày bán
công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung giữa
đời tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát vọng tự do, quyển thượng, Thiên
hạ đệ nhất mỹ nhân, quyển trung, Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ
và Thanh Kiếm và cây đàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản
Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được
in lại. Sách của nhóm TLVĐ cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với
các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.
Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu
năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung
Ương đảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn?
Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một
nhận xét như sau : Kể tử 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai
bộ mặt sinh hoạt văn học : Mặt nổi và mặt chìm.
– Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính
thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất
đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ
trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ
bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như : Mười ngày của
Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng cười, dịch V.Hugô. Cửa
hàng vì hạnh phúc các bà của E.Zôla.. Dịch lạ quá, tôi đi tìm
sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa hàng vì hạnh
phúc các bà ở đâu. Trăm năm cô đơn của G.Market. Tuổi thơ mãi mãi cùng ta của
M. Karim, Đất vỡ hoang của M. Sôlôkhốp, Thời gian để sống và để chết của E.
Rơmacơ. Ông già và biển cả của E. Hemingway, Đồi gió hú của E.Brônti. Cả
ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh
gió hú, đốt Lão ngư ông và biển cả, đốt Thời gian để sống
và để chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền
Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và
giấy thì thật xấu. Để làm gì?
Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn
công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính
những sản phẩm văn hoá đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành
biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu
không có những thứ văn hoá phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa,
khô chồi và thui chột.
Xin trích dẫn ở đây nhận xét và tâm tình của
một người bạn yêu sách miền Nam.
“Vào những năm 76-79, tôi hay đi chợ Trời
sách Sàigòn lục các sách kỹ thuật để xem bạn bẻ du học Mỹ, Tây, Tầu, Úc ai còn
ai ở..Sự kiện như thế này: sách kỹ thuật mà bán ở chợ Trời, tức là chủ sách đã
chạy rồi và người nhà hoặc con buôn đem sách đi bán hoặc là nhà bị kiểm kê.
Sách kỹ thuật được gom lại rất dơ bẩn và được chuồi ra cho con buôn. Sau này,
khi tôi vượt biên, bạn bè còn lại cũng thấy sách ngành luyện kim (metallurgy) của
tôi bán ở chợ trởi.. Thế là biết nhau hết.
Cứ
có sách ở đó, tức là người đã đi rồi. Tôi còn nhớ có một lần dược một
chị con buôn sách vỉa hè tin cậy, cho lén xem kho sách chị thu gom được. Cả
ngàn hay vạn cuốn sách chứa đầy một căn gác rộng và kín, chỉ có vài ánh nắng
chiếu vào. Tôi lom khom ở trên gác lửng đó lục sách, thôi thì gì cũng có cả: tiếng
tây, tiếng Mỹ, tiếng Tàu, tiếng Việt. Văn chương, khoa học kỹ thuật. Hàng vạn
cuốn cũ chất đống, bụi bậm mịt mù mỗi khi nhấc một cuốn sách lên. Thật là một
kinh nghiệm không bao giờ quên. Bây giờ nhắm mắt lại, vẫn còn thấy, còn ngửi được
mùi sách, mùi bụi, mùi văn minh từ căn gác ấy. Không hiểu anh nghĩ sao, chứ bây
giờ, tôi vẫn rất kính phục những con buôn sách đó, dù rằng họ giữ gìn sách quốc
cấm vì lợi nhuận chứ không phải vì họ quý trọng nền văn hoá và văn
minh trong sách, bởi vì việc làm của họ đã giúp bảo tồn nền văn học của miền
Nam tự do”.
Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam
dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong
tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc
sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ:
Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại
thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước
phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.
Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo
nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt
mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa
hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ
nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hoá
này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại
của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán,
những thứ rác rưởi văn hoá đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những
điểm này, người bán kẻ mua tấp nập”[vi].
Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu
gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi
là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.
Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những
thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền
Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền
đất nước thân yêu của họ.
Điều đó khó mà tha thứ được.
C- Những người có công với sách cũ của Sàigòn
Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn
tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả.
Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hoá phẩm
ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học.
Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam
Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hoá Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối,
An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn
sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.
1- Ông Khai Trí :
Chẳng mấy ai biết tên thật của ông thành
thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hoá vào tên ông. Thật ra tên ông
là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một
doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên sọan khoảng 15 cuốn sách
như Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Chánh tả cho người miền
Nam... và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.
Sau giải phóng, nhà sách KT là nạn nhân của nạn
hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường.
Tôi đã tận mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp
hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng
ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi
thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều
đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người
dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bị trưng thâu. Hằng
vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.
Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.
Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo
hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp
tục làm Văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy
Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm
trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về
giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra
đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in sách trước 1975.
Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.
Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục
chẳng đi đến đâu.
Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt
tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày Thích Trí Quang nhận xét :
“Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu”.
Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237
Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại
Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện
thành phố.
Cụ Toan Ánh, năm nay 91 tuổi, trong bữa đưa
đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai
Trí mới có 80 tuổi.
2- Nhà Lá Bối :
Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật
là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc
phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn
có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn
sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội
dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có
Lá Bối, những Chiến tranh và Hoà Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã
Thiên, Kiếp người của Sommerset Maugham, Mười khuôn mặt văn
nghệ hôm nay và Lối thoát cuối cùng của V. Georghiu sẽ
nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn
đọc. Nhất là bộ Chiến tranh và Hoà Bình của Léon Tolstoi.
Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở Hải
ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một
vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên
nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.
3- An Tiêm Thanh Tuệ
Tôi chỉ xin trích dẫn ba
bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với
Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.
-Thái Kim Lan về Thanh Tuệ:
Hình như dưới tay anh tác phẩm được in nào cũng mang
một chút lòng trân trọng của anh như thế đối với tác giả và độc giả, một nét cười
bao dung mời gọi, vừa cảm khái liên tài vừa khuyến khích thúc giục, một nhịp nối
uyển chuyển tài hoa giữa giãi bày tâm sự và tìm kiếm tri âm trong chữ nghĩa và
tri thức, giữa người và người…
An Tiêm đã khai phá, mở cửa khu vườn văn học của các
nghệ sĩ trẻ miền nam trong khung cảnh sôi động của thập niên 60…
-Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị
Lai Hồng :
Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc
thương.Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi
tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.
Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi
đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi giáng, Sao Trên Rừng,
Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã
từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt.. Đêm Nguyệt Động, Cái
chuồng khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực
hiện được.
·
Với nhà văn Lê Thị Huệ:
Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm
trước rủ đi uống càphê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục.
Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.
4- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn.
Có lẻ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ
hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thường, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết
tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó.
Người viết bài này có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng
giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ
trong bữa ăn trưa đó. Các anh cho tôi biết: Gốc gác các anh đều là dân Quảng
Nam, Quảng ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam
Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng
nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, Họ,những người dân miền ấy có mặt khắp
nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh
Niên v.v. đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi
Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Lang, Sàgòn time có Võ như
Lanh, Kinh tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..
Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với
cái vốn liếng ấy, anh đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách
nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có
tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến
thời mở cửa,1986.. Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước
để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm.
Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp.
Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì
đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.
Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong
ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân
viên. Tôi thắc mắc hỏ:tại sao có nhiều nhân viên như thế? Trả lời là để trông
chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.
Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu
sách đủ loại.
Tôi còn ghi lại một chi tiết nhỏ trong buổi ra
mắt sách, mỗi khách mời ngoài phần ăn uống, còn có một phong bì 50.000 làm quà
tặng. Còn các quan văn nghệ lớn từ miền Bắc vào, ngoài chi phí máy bay, khách sạn,
còn phong bì không biết là bao nhiêu? Tôi không tiện hỏi. Đó là một cách đút
lót hợp pháp.
Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn
nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có Loan mắt
Nhung nữa.
Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa
con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.
Và như trong một số bài
viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một
điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi
Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v., yêu cầu
các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN cộng hoà, xin lỗi
các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con
miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.
Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.
—————————————————————————-
[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ..Nam Việt Nam
1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hoá Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hoá Văn Ngệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng
Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng
Đăng Đàn. Nxb Văn Hoá Thông tin. Trg 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226,
nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi
Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn
Hưng Quốc, trg 228. nxb Văn Nghệ.
No comments:
Post a Comment