Tư duy mở: Từ một góc độ của triết học
https://tiasang.com.vn/doi-moi-sang-tao/tu-duy-mo-tu-mot-goc-do-cua-triet-hoc/
Tư duy mở là phẩm tính cho phép con người trở thành
người với tất cả sức mạnh trí tuệ và nội tâm của mình, trong khi tương tác với
ngoại giới. Và tư duy mở trở thành điều kiện thiết yếu cho các thành quả mà các
cộng đồng người đã và sẽ đạt tới.
.
Tư duy mở: cách hiểu phổ biến
Tư duy mở (trong ngôn ngữ hằng ngày chúng ta sử dụng một từ đồng nghĩa
khác: “đầu óc cởi mở”) được dùng phổ biến để chỉ năng lực tự đặt mình vào vị thế
của người khác, năng lực tiếp nhận được cách suy nghĩ của người khác, để đạt tới
sự đồng cảm về nhận thức, tức là năng lực thấu hiểu người khác. Nhờ vậy mà hiểu
rõ ý nghĩa của việc được nghe người khác trình bày ý kiến của họ, hiểu rõ tầm
quan trọng của những kiến thức mà người khác mang lại và công nhận giá trị của
những kiến thức ấy. Điều đáng nói, khi hiểu được những điều này thì lợi ích
không phải chỉ dành cho người khác, mà người có tư duy mở được hưởng lợi rất
nhiều từ đó.
Những lợi ích thông thường của tư duy mở mà các định nghĩa cung cấp cho
chúng ta: nhờ có tư duy mở con người mới có khả năng gia nhập được vào thế giới
của kẻ khác, gia nhập vào những thế giới khác với thế giới của mình, tiếp nhận ở
đó những điều mới mẻ, khác lạ, và làm phong phú thêm thế giới của mình, hoặc,
quan trọng hơn, làm thay đổi thế giới của mình. Tư duy mở tạo ra sự gặp gỡ giữa
các tinh thần khác nhau, nó cho phép con người học hỏi cách suy nghĩ của người
khác, học hỏi các kinh nghiệm quý báu vốn là kết quả của những cách suy nghĩ ấy
và sử dụng các kết quả đó như những điều kiện cho thành công của chính mình. Tư
duy mở cho phép con người tránh được sai lầm nhờ việc học hỏi những người khác,
đồng thời phát triển nhanh hơn và có những kết quả tốt hơn, so với việc nếu chỉ
dừng lại trong phạm vi các kinh nghiệm cá nhân của riêng mình. Và để cho các
tinh thần khác nhau có thể gặp gỡ nhau thì nguyên tắc lựa chọn của tư duy mở là
nguyên tắc đối thoại, nhờ đối thoại mà mọi tiếng nói có thể cất lên và được lắng
nghe.
Dĩ nhiên, hiểu người khác, tiếp nhận suy nghĩ của người khác, không có
nghĩa là ba phải, không có nghĩa là thu nạp tất cả mọi thứ và đánh mất suy nghĩ
riêng của mình. Trái lại, tư duy mở luôn đi kèm với một phẩm chất khác của tư
duy: năng lực phản biện. Con người xây dựng nhân vị độc đáo của mình nhờ sự kết
hợp giữa đầu óc cởi mở và đầu óc phản biện. Các xã hội người phát triển dựa
trên sự kết hợp giữa tư duy mở và tư duy phản biện. Với tư duy mở, con người có
thể tự điều chỉnh, tự thay đổi chính mình, trong một hành trình được thiết lập
cùng với tập thể để tạo nên sự thay đổi và phát triển của cả tập thể.
========================
Để cho các tinh thần khác nhau có thể gặp gỡ nhau
thì nguyên tắc lựa chọn của tư duy mở là nguyên tắc đối thoại, nhờ đối thoại mà
mọi tiếng nói có thể cất lên và được lắng nghe. Tư duy mở còn luôn đi kèm với một
phẩm chất khác của tư duy: năng lực phản biện.
========================
Tóm lại, một cách ngắn gọn: tư duy mở là điều kiện cần thiết cho sự
thay đổi và là điều kiện cần thiết cho sự phát triển, của cá nhân và xã hội. Một
điều chắc chắn là hầu hết những thành tựu và tiến bộ mà loài người có được là
nhờ những người mang trong mình sức mạnh của một đầu óc cởi mở, luôn tò mò,
không ngừng đặt câu hỏi về thế giới xung quanh, không ngừng tìm hiểu về những
gì chưa biết, những người khám phá không mệt mỏi, bền bỉ chinh phục những giới
hạn mới với tinh thần mở đến vô tận.
Trong khi hoàn toàn đồng ý với định nghĩa phổ biến trên đây về tư duy mở,
tôi muốn nêu ra một vài suy nghĩ về vấn đề này từ góc độ triết học, từ một góc
rất hẹp của triết học.
.
Dụ ngôn “Cái hang” của Platon
Hình : https://tiasang.com.vn/wp-content/uploads/2023/01/tu-duy-mo-anh-1-1170x700.png
Dụ ngôn “Cái hang” của Platon. Ảnh:
MatiasEnElMundo / Getty Images
Những phân tích về tư duy mở trong bài này xuất phát từ việc quay trở lại
với một trong những câu chuyện triết học đầu tiên, hết sức nổi tiếng vì sự sâu
sắc và những lớp nghĩa chưa bao giờ cạn kiệt của nó, đó là dụ ngôn Cái
hang của Platon, được viết trong cuốn Cộng hòa. Những kiệt
tác (dù là trong lĩnh vực sáng tạo, tư tưởng, hay bất kỳ lĩnh vực nào) sẽ luôn
mở: chúng luôn có thể được tiếp cận và được khai thác từ những góc độ mới, để từ
đó mà các ý nghĩa mới được hiển lộ. Dụ ngôn Cái hang đã được
diễn giải theo nhiều cách khác nhau, vô số tầng nghĩa của nó đã được các nhà
phân tích chỉ ra, từ thời đại này qua thời đại khác. Và chúng ta vẫn có thể tìm
thấy trong đó một tầng ý nghĩa gắn với vấn đề tư duy mở. Trước tiên, cần tóm tắt
câu chuyện của Platon:
Một cái
hang tưởng tượng có cửa vào mở ra ánh sáng. Phía sâu, cuối hang, những tù nhân
bị trói trên những chiếc ghế, từ khi còn nhỏ, đầu cũng bị sợi dây buộc cố định
theo một hướng khiến họ chỉ nhìn thấy duy nhất bức tường trước mặt. Trên cao và
sau lưng họ, có một ngọn lửa, là nguồn sáng duy nhất trong hang. Giữa ngọn lửa
và họ, một bức tường thấp dựng lên trên con đường chạy ngang, trên tường có những
con rối nhảy múa, và đoàn người cầm những đồ vật đủ các loại diễu qua sau bức
tường thấp đó, có người trò chuyện có người im lặng. Ngọn lửa phía sau phản chiếu
hình ảnh của các đồ vật lên bức tường trước mặt những người bị trói trên ghế,
và họ nhìn thấy bóng mờ của chúng trên tường. Chân bị trói và đầu bị cố định, họ
không thể nhìn thấy các đồ vật thực, cũng không thể nhìn thấy chính họ và những
người trong hang, ngoài những cái bóng phản chiếu trước mặt. Họ chỉ có thể nghe
thấy tiếng những âm thanh dội lại trên tường, không thể nghe thấy những âm
thanh thực sự. Cũng sau lưng họ, có một lối đi dọc, dẫn ra thế giới bên ngoài
hang.
https://tiasang.com.vn/wp-content/uploads/2023/01/tu-duy-mo-anh-2-1.jpg
Nhà thiên văn học Giordano Bruno bị hỏa thiêu
vì tuyên bố Trái đất tròn, trái với quan niệm của nhà thờ thời bấy giờ.
Điều gì
sẽ xảy ra, một cách tự nhiên, nếu người ta tháo xiềng cho họ và giải phóng họ
khỏi tình trạng không biết? Platon đặt câu hỏi như vậy và phần tiếp theo của
câu chuyện mô tả điều đó.
Giả định
rằng một người được cởi trói và bị cưỡng ép phải đứng dậy ngay tức khắc, bị bắt
phải xoay cổ, phải quay người lại, bước đi và nhìn trực tiếp vào ngọn lửa. Những
vận động đó khiến anh ta cảm thấy đau đớn toàn thân, khiến mắt bị tổn thương.
Khi tiến về phía sau, anh nhìn thấy những đồ vật và những sinh vật thật, nhưng
do bị ngọn lửa làm lóa mắt, anh tưởng chúng là những ảo ảnh, và vẫn nghĩ những
cái bóng trên tường kia mới là vật thực.
Tiếp
đó, người ta dùng sức mạnh lôi anh đi theo con đường gồ ghề, chông gai, dẫn lên
cao. Trải qua một hành trình gian nan, đau đớn dữ dội, cuối cùng anh cũng bị dẫn
ra khỏi hang và đến dưới mặt trời. Ánh sáng rực rỡ của nó ngay lập tức làm mắt
anh đau nhức, chói lóa, đến mức gần như mù, không nhìn được gì nữa. Rồi mắt anh
quen dần với tình trạng mới. Khi đã hoàn
toàn thoải mái và quen thuộc với ánh sáng mặt trời, anh đạt tới chỗ phân biệt
được các cấp độ tồn tại khác nhau của sự vật: trước hết là bóng của các vật, rồi
đến hình ảnh phản chiếu của con người và sự vật trên mặt nước, tiếp theo là
chính bản thân sự vật. Đêm đến, anh nhìn thấy ánh sáng của mặt trăng và các
thiên thể trên bầu trời. Dĩ nhiên, anh nhìn thấy ánh sáng mặt trời và chính bản
thân mặt trời như nó trong thực tế. Tóm lại, anh có thể nhìn thấy vạn vật ở sự
tồn tại thực của chúng. Từ đó, anh hiểu rằng cần nắm bắt mọi vật trong ánh sáng
mặt trời, vì mặt trời là cội nguồn của sự thật, và là cội nguồn của vạn vật.
Khi nhớ
lại tình trạng đã trải qua trong hang anh cảm thấy hạnh phúc vì đã có cơ hội
thoát khỏi bóng tối để đến với nhận thức sáng rõ về sự vật, và biết rằng mình không
thể sống cuộc đời tù nhân dưới hang nữa. Anh thà làm việc cực khổ như những người
lao động nghèo nhưng được sống với mặt trời và nhận biết mọi vật, chứ không muốn
bị kìm kẹp với những ảo ảnh sai lầm như trước đây nữa. Anh trở lại hang với
mong muốn giải phóng cho những người đang bị giam cầm ở đó.
Lúc vào
lại trong hang, bóng tối khiến anh quáng mắt, không nhìn thấy rõ xung quanh. Những
người bị trói cho rằng mắt anh đã hỏng do ra khỏi hang, và họ không muốn bắt
chước anh. Nếu anh cố gắng giải thoát cho họ, rất có thể anh sẽ bị họ giết chết
ngay lập tức.
Kiệt tác này đã được diễn giải theo nhiều hướng khác nhau (trong đó có
cả các diễn giải của chính tác giả, Platon) mà tôi không nhắc lại ở đây. Tôi sẽ
tái diễn giải nó từ góc độ vấn đề tư duy mở.
.
Tư duy mở: hành trình vượt thoát của cá nhân và cộng
đồng
Trong dụ ngôn này, con người bị cầm tù trong lòng đất, bị kẹt giữa hai
bức tường, bị trói chặt trên ghế. Tất cả những gì họ thấy là những hình bóng của
một số vật ít ỏi được phản chiếu trên bức tường trước mặt. Và họ tưởng những
hình ảnh phản chiếu đó là bản thân các vật thực. Những chi tiết này ẩn dụ cho sự
nghèo nàn, hạn chế, và cả những nhầm lẫn, ảo tưởng trong nhận thức của con người.
Đồng thời cũng là ẩn dụ cho sự khép kín về tư duy của con người. Một khi bị
ràng buộc bởi hoàn cảnh bên ngoài thì người ta chỉ có thể nhìn theo một hướng,
hệ quả là chỉ có thể nghĩ theo một hướng duy nhất; và sự hạn chế, hẹp hòi, đóng
kín trong tư duy là điều không thể tránh khỏi. Những tù nhân trong hang chỉ có
thể có một kiểu tư duy đóng, tư duy khép kín, hậu quả của tình trạng bị giam cầm,
bị trói buộc. Nhìn từ góc độ khác, tư duy khép kín chính là một thứ nhà tù giam
hãm đầu óc con người, nó giới hạn nhận thức và sự hiểu biết của con người trong
khuôn khổ chật hẹp của nó.
====================================
Một tư duy đóng muốn chuyển thành tư duy mở, đòi hỏi
phải có khoảng thời gian cần thiết. Và nếu tư duy đang ở tình trạng khép kín, để
chuyển thành tư duy mở, nhất thiết con người phải chịu đựng những vật vã, đau đớn
không thể tránh khỏi.
=====================================
Những tù nhân trong hang không nhìn thấy gì ngoài những cái bóng trước
mặt, họ không nhìn thấy những người khác, hơn thế, họ không nhìn thấy cả chính
mình, Platon nói như vậy. Hậu quả của kiểu tư duy khép kín không chỉ ở việc nhận
thức về thế giới bên ngoài bị giới hạn, không chỉ chỗ thiếu hiểu biết về người
khác, về những cái khác với mình. Mà hậu quả trầm trọng còn là ở chỗ không biết
gì về chính mình, không có nhận thức về bản thân.
Nhưng cái hang của Platon không bị bịt kín, nó có một cửa hang, một lối
đi dẫn ra bên ngoài, tức là một con đường thoát. Điều này muốn nói rằng con người
luôn có cơ hội và khả năng thoát ra khỏi tình trạng trí tuệ bị giam hãm, luôn
có con đường để giải phóng cho tư duy của mình, để đặt tư duy vào trạng thái mở.
Thế giới bên ngoài chính là cái khác với cái hang, đến với thế giới bên ngoài tức
là đến với cái khác, là rời bỏ hiện trạng đang có để mở về phía khác mình, từ
đó mà tiếp cận với thực tế, với tồn tại đích thực, với sự thật. Tuy nhiên, đó
là một hành trình cực khổ, đòi hỏi phải trải qua những sai lầm, những đau đớn về
tinh thần và thể chất, đòi hỏi phải tự vượt lên chính mình và vượt lên trên
hoàn cảnh.
Trong câu chuyện, Platon đề cập đến ba thời điểm lúc người tù được giải
phóng phải chịu cơn đau thể chất, đó là những thời điểm có sự thay đổi căn bản
về trạng thái, và có sự thay đổi trong tiếp xúc với các loại ánh sáng khác
nhau. Lần đầu tiên là khi được tháo xiềng, các vận động làm cơ thể đau đớn, và nhìn
thấy ngọn lửa thật, bị lóa mắt và nhìn không rõ. Lần thứ hai, quá trình thoát
hang gian khổ khiến cho cơ thể đau đớn khủng khiếp, và khi ra khỏi hang, đối diện
với ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mắt đau dữ dội, chói lóa, gần như bị mù,
không nhìn thấy gì. Lần thứ ba là khi trở lại chốn cũ, bóng tối tù mù trong
hang lại khiến mắt bị quáng và cũng nhìn không rõ. Như vậy, khi đang từ bóng tối
đột ngột tiếp xúc với ánh sáng, và khi từ nơi ánh sáng trở về tiếp xúc với bóng
tối, con người gặp khó khăn trong việc nhận biết mọi vật xung quanh.
Ta có thể hiểu Platon muốn nói rằng, khi thay đổi trạng thái, con người
cần phải thích nghi, và cần thời gian để thích nghi. Cũng vậy, một tư duy đóng
muốn chuyển thành tư duy mở, đòi hỏi phải có khoảng thời gian cần thiết. Và nếu
tư duy đang ở tình trạng khép kín, để chuyển thành tư duy mở, nhất thiết con
người phải chịu đựng những vật vã, đau đớn không thể tránh khỏi. Hành trình
thoát ra khỏi hang cũng tức là hành trình thoát ra khỏi chính mình, thật không
dễ dàng.
Hình : https://tiasang.com.vn/wp-content/uploads/2023/01/tu-duy-mo-anh-3-1.jpg
Socrate phải trả giá bằng chính sinh mạng mình cho những quan điểm đi
trước thời đại.
Vượt thoát chính mình, tự giải phóng khỏi những giới hạn của bản thân,
đó là một công cuộc rất khó khăn, đau khổ. Khi người tù được giải thoát quay trở
lại hang với ý định cứu những bạn tù khác, thì những người bị trói có thể giết
anh để chống lại việc được anh giải thoát. Điều này thực sự đã xảy ra với
Socrate. Platon kể chi tiết này như một ẩn dụ về cái chết của Socrate, vị triết
gia (thầy của Platon và là cha đẻ của triết học phương Tây) đã bị những công
dân thành Athène vĩ đại giết chết, chỉ vì ông muốn giúp họ thoát khỏi sự thiếu
hiểu biết, và vì họ không chấp nhận và không chịu đựng được kiểu tư duy khác biệt
của ông. Cái giá mà những người có tư duy mở phải trả là rất đắt, nếu tập thể
chưa sẵn sàng với cách tư duy này và vẫn còn trong tình trạng đầu óc khép kín,
như với trường hợp Socrate, ông đã phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình.
Và sau ông, ở mọi thời đại, các trí thức, triết gia, các nhà khoa học tiếp tục
phải trả giá cho tư duy mở của họ. Trong danh sách dài dằng dặc theo suốt lịch
sử nhân loại, ta có thể kể đến một số tên tuổi: nhà thiên văn học Bruno chết
trên giàn thiêu, Galileo vào tù, triết gia John Locke phải sống lưu vong ở Hà
Lan nhiều năm, Rousseau bị truy nã và lưu vong khắp châu Âu trong một thời gian
dài, Voltaire có lúc bị bắt giam, nhà văn Victor Hugo cũng bị trục xuất và lưu
vong suốt mười chín năm… chỉ vì họ là những người có tư duy mở, mà thời đại lại
chưa kịp mở cùng với họ.
Tuy nhiên, đau đớn và trả giá là cần thiết, khi mà cùng với nó, con người
có thể từ bóng tối ngu dốt bước ra ánh sáng của sự hiểu biết. Đó là một hành
trình siêu vượt cho phép kiểm nghiệm, thể hiện, và khẳng định phẩm tính người.
Mọi sự siêu vượt đều không dễ dàng và phải trả giá. Socrate hiểu rõ như vậy,
nên, thay vì bỏ trốn để bảo toàn mạng sống, ông đã vui vẻ chấp nhận chén thuốc
độc, để cho, không chỉ mình ông, mà nhân loại có thể vượt thoát chính mình. May
mắn là ngày nay một phần nhân loại hiểu rõ giá trị sự hy sinh của Socrate và những
người như ông, vì vậy, trên thế giới, các xã hội tiến bộ và phát triển đã tạo
ra các cơ chế thích hợp để bảo vệ, khuyến khích, thúc đẩy phẩm chất mở của tư
duy, bảo vệ và khuyến khích những người có tư duy mở. Điều này tác động trở lại,
khiến cho xã hội của họ càng phát triển và tiến bộ hơn.
Sự thay đổi tư duy không chỉ cần đến thời gian, cần chấp nhận đau khổ
và trả giá, mà còn cần đến những điều kiện khác. Một trong những điều kiện quan
trọng nhất, đó là giáo dục. Bản thân Platon diễn giải dụ ngôn Cái hang của
ông từ góc độ giáo dục. Giáo dục là con đường nhanh nhất, hiệu quả nhất cho việc
hình thành tư duy mở cho các cá nhân và cho toàn xã hội, và đảm bảo cho tư duy
mở được phát triển một cách bền vững; dù rằng giáo dục cũng cần thời gian mới
có thể xây dựng hay thay đổi nhận thức và cách suy nghĩ của con người. Cách tốt
nhất để cả một cộng đồng có được tư duy mở là đào luyện cho trẻ em suy nghĩ
theo hướng mở, theo phương pháp mở.
===================================================
Giáo dục là con đường nhanh nhất, hiệu quả nhất cho
việc hình thành tư duy mở cho các cá nhân và cho toàn xã hội, và đảm bảo cho tư
duy mở được phát triển một cách bền vững.
====================================================
Vì vậy, việc đào tạo những con người có tinh thần cởi mở và có các kỹ
năng tư duy mở trở thành nhiệm vụ của trường học. Học sinh cần được dạy để hiểu
rằng, mỗi người nhìn thế giới theo một cách riêng, tùy thuộc vào những giới hạn
không thể tránh khỏi (về không gian, thời gian, gia đình, xã hội…), nhưng nếu mỗi
người đưa vào được trong đầu óc mình cách nhìn và cách nghĩ của nhiều người
khác, thì có thể thoát khỏi tính chất nhỏ mọn, chủ quan, thoát khỏi các giới hạn
chật hẹp, để trở nên rộng mở, bao dung, và nhờ đó mà có thể đạt tới tầm phổ
quát. Platon cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục đối với sự phát triển năng lực
nhận thức và xây dựng một cộng đồng đạt tới trạng thái lý tưởng.
Tư duy mở, như vậy, là một trong những năng lực người điển hình: năng lực
mở trí tuệ vào những gì chưa biết, năng lực thám hiểm và chinh phục những chân
trời xa lạ, năng lực vượt thoát các giới hạn bên ngoài và bên trong, từ đó thiết
lập cá tính, bản sắc độc đáo, giá trị riêng của cá nhân, tất cả những gì gắn với
phẩm chất sáng tạo cái mới nơi con người. Nói cách khác, tư duy mở là phẩm tính
cho phép con người trở thành người với tất cả sức mạnh trí tuệ và nội tâm của
mình, trong khi tương tác với ngoại giới. Và tư duy mở trở thành điều kiện thiết
yếu cho các thành quả mà các cộng đồng người đã và sẽ đạt tới. □
------------
Xem thêm:
Suy giảm 90% san hô ở Vịnh
Nha Trang
VINATOM – Lightbridge
ký thỏa thuận hỗ trợ tư vấn cho CNEST
Phân hữu cơ không mùi
hôi từ lông gà
Nghĩ về việc chuẩn hóa
chính tả tiếng Việt hiện nay
No comments:
Post a Comment