Sau 27 năm bang giao Mỹ-Việt, Hà Nội vẫn theo Nga và Trung Quốc
02/01/2023
Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao năm 1995, hai mươi năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, khép lại một trang sử
thù nghịch kéo dài nhiều thập niên trên chiến trường và chính trường ngoại
giao.
TT
Bill Clinton thăm Hà Nội. Ảnh AFP- Getty images
Cơ hội để Việt Nam và Hoa Kỳ nối lại quan hệ đã có không lâu sau khi cuộc
chiến kết thúc, nhưng Hà Nội để mất cơ hội bắt tay với Washington vào những năm
cuối thập niên 1970.
Sau chiến tranh, Mỹ muốn thừa nhận một nước Việt Nam thống nhất dưới sự
lãnh đạo của Hà Nội, vì thế khi hai quốc gia là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Miền
Bắc) và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (hậu thân của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam hay còn gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam, thay thế Việt
Nam Cộng hoà sau này 30/4/1975) cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc vào cuối năm
1975, Hoa Kỳ đã phủ quyết việc này, còn Trung Quốc, Liên Xô và Anh, Pháp đều ủng
hộ. Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc Hoàng Hoa [Huang Hua] lúc đó đã ca ngợi
cuộc chiến đấu lâu dài của nhân dân Việt Nam là “biểu tượng sáng ngời của chính
nghĩa cách mạng chống đế quốc” trên toàn thế giới và ông nhấn mạnh hai dân tộc
Trung, Việt đã là “đồng chí chiến đấu bên nhau.” (The New York Times 12/8/1975)
Năm 1976, Việt Nam chính thức thống nhất, Hoa Kỳ
không còn phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam trở thành hội viên năm 1977.
Cùng năm đó Tổng thống Jimmy Carter gửi đặc sứ Leonard Woodcock đến Hà
Nội để bàn về vấn đề hơn hai nghìn tù binh và lính Mỹ còn mất tích (POW-MIA) và
tương lai quan hệ hai nước. Khi đó ông Woodcock là trưởng văn phòng liên lạc của
Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, là cơ sở ngoại giao không chính thức của Mỹ được thiết lập
sau chuyến đi lịch sử đến Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon năm 1972.
Tháng 6 năm 1977 cũng đã có những cuộc gặp tại Paris giữa thứ trưởng
ngoại giao Mỹ Richard Holbrooke và thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Phan Hiền.
Phía Mỹ đề nghị hai nước nối lại bang giao trước, rồi tiếp tục thảo luận về quyền
lợi hai bên gồm vấn đề MIA-POW và tái thiết miền Bắc. Hà Nội không đồng ý mở ra
quan hệ ngoại giao mà nhất quyết đòi Mỹ trước hết phải viện trợ 3.5 tỉ đôla tái
thiết, viện trợ thực phẩm và hàng hoá như Tổng thống Richard Nixon đã hứa trong
thư riêng gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi ký Hiệp định Paris 1973.
Chính sách đối ngoại của Hà Nội khi đó là theo Liên Xô chống lại Hoa Kỳ
và Trung Quốc. Tháng 6 năm 1978 Việt Nam gia nhập khối hỗ tương kinh tế Comecon
gồm các quốc gia cộng sản Đông Âu do Liên Xô đỡ đầu. Đến tháng 11, Tổng Bí thư
Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua Moskova gặp Tổng Bí thư Leonid Brezhnev
và ký Hiệp ước Thân hữu với Liên Xô.
Những sự kiện trên khiến Washington thay đổi chính sách với Hà Nội, vì
sau khi bốn bên ký Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ đã muốn giúp cả hai miền Nam và
Bắc Việt Nam cùng phát triển, qua thư riêng của Tổng thống Nixon gửi cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng với lời hứa viện trợ 3.5 tỉ đôla, cũng như thư riêng gửi cho Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, những nhà làm
chính sách Mỹ cũng hy vọng rằng Việt Nam sẽ như cộng sản Nam Tư trong đối ngoại,
không nghiêng về Liên Xô hay Trung Quốc, vì thế Hoa Kỳ đã đề nghị thiết lập
quan hệ ngoại giao từ năm 1977 và sẽ giúp Việt Nam phát triển kinh tế để dần
đưa đến thay đổi, như Hoa Kỳ khi đó đang có chính sách giao thương với Trung Quốc
từ khi mở ra quan hệ thương mại giữa hai nước.
Nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã không muốn có quan hệ ngoại giao với Mỹ và
Hà Nội đã đứng hẳn về phía Liên Xô. Cuối năm 1978 bộ đội Việt Nam tiến vào
Cambodia lật đổ chế độ Khmer đỏ của Pol Pot được Trung Quốc yểm trợ để dựng lên
chính quyền Hun Sen thân Việt Nam.
Với cuộc xâm lăng Cambodia, Washington không còn ý định theo đuổi việc
thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội mà quyết định bang giao với Trung Quốc
vào đầu năm 1979. Bắt tay được với Mỹ, Trung Quốc cắt đứt quan hệ và “dạy cho
Việt Nam một bài học” bằng các cuộc tấn công quân sự vào các tỉnh biên giới
phía bắc. Còn Washington ủng hộ Bắc Kinh bằng cách xiết chặt cấm vận đối với Việt
Nam.
Sau mười năm chiếm đóng, đầu thập niên 1990 Việt
Nam rút hết bộ đội về và đồng ý với giải pháp hoà bình cho Cambodia của Liên Hiệp
Quốc.
Trước biến cố sinh viên Trung Quốc đòi dân chủ và bị đàn áp khiến hàng
nghìn người thiệt mạng ở Thiên An Môn vào hè 1989 và cuộc “Cách mạng Nhung” kéo
theo sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu, cùng sự tan rã của Liên Bang
Xô Viết, Hà Nội và Bắc Kinh đã bỏ qua thù nghịch cũ và xích lại với nhau, cam kết
bảo vệ thành trì còn lại của cộng sản trên thế giới.
Những năm đầu thập niên 1990 làn gió cải cách chính trị cũng đã thổi
qua Việt Nam, với những tiếng nói của giáo sư Phan Đình Diệu, cựu Tướng Trần Độ,
Uỷ viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách hay của nhóm Diễn đàn Tự do của giáo sư
Đoàn Viết Hoạt, Cao trào Nhân bản của bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Nhóm Đà Lạt của tiến
sĩ Hà Sĩ Phu cũng như các tiếng nói của luật sư Đoàn Thanh Liêm, giáo sư Nguyễn
Văn Huy. Nhưng tất cả đã bị Hà Nội tìm cách dập tắt bằng cách khai trừ khỏi đảng
hoặc áp đặt những bản án tù nhiều năm với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền
nhân dân” hay “tuyên truyền chống lại xã hội chủ nghĩa” cho những người đòi cải
cách chính trị để có tự do dân chủ cho đất nước.
Tổng thống Richard Nixon đi Bắc Kinh năm 1972 với chính sách giúp Trung
Quốc phát triển kinh tế, từ đó sẽ đưa đến các cải cách chính trị. Năm 1992 Hoa
Kỳ có cùng viễn kiến ngoại giao đối với Việt Nam nên đã dần nới lỏng cấm vận và
đến năm 1995 Washington và Hà Nội chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự
kiện này cũng cho thấy Hà Nội không thể đi trước Bắc Kinh trong việc nối lại
quan hệ với Hoa Kỳ, vì sau khi đồng ý giải pháp hoà bình cho Cambodia, lãnh đạo
của Hà Nội và Bắc Kinh đã ký một văn bản hợp tác hỗ tương gọi là “Mật ước
Thành Đô” vào năm 1990, qua năm 1991 thì Việt Nam và Trung Quốc nối lại
bang giao, bốn năm trước khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ.
Sau 27 năm có bang giao hai nước, giao thương Mỹ-Việt
đã lên đến hàng trăm tỉ đôla mỗi năm và trao đổi, hợp tác về giáo dục, an ninh,
quốc phòng, y tế, môi sinh ngày càng phát triển. Nhiều cán bộ, tướng tá cộng sản
và con cháu cũng đã chọn Mỹ làm quê hương thứ hai.
Hội
nghị ghi dấu 27 năm quan hệ Việt-Mỹ do Đại học Fulbright Vietnam tổ chức vào
tháng 8/2022 (Screenshot – Fulbright University Vietnam)
Nhưng về đối ngoại chính trị, Việt Nam ngày nay vẫn
đang theo đuổi các chính sách nghiêng về Trung Quốc và Nga. Tuy giới
lãnh đạo Hà Nội luôn nhấn mạnh đến việc không liên minh với nước này để chống lại
nước khác, gọi là “ngoại giao cây tre”, “ngoại giao đu dây”; nhưng trên thực tế
Hà Nội vẫn e dè với Mỹ và vẫn đang đứng về phía Nga và Trung Quốc. Qua các lần
bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine cho thấy lãnh đạo
Việt Nam không ủng hộ Mỹ và đã đi ngược lại với thế giới trong việc lên án Nga
xâm lược.
Trong hai năm qua đã nhiều lần Washington đề nghị
nâng cấp bang giao từ “quan hệ đối tác toàn diện” lên “quan hệ đối tác chiến lược”
nhưng Hà Nội vẫn chần chừ.
Sau khi Tập Cận Bình được chọn làm lãnh đạo Trung Quốc thêm một nhiệm kỳ
thứ ba, cuối tháng 10 vừa qua Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước
ngoài đầu tiên đến Bắc Kinh gặp gỡ Chủ tịch Tập. Bản thông cáo chung đưa ra sau
chuyến thăm cho thấy Hà Nội ủng hộ các chính sách an ninh và phát triển toàn cầu
của Bắc Kinh, từ Sáng kiến Vòng đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative),
Sáng kiến Kết hợp Toàn cầu (GNI, Global Network Initiative) và Sáng kiến Phát
triển Toàn cầu (GDI, Global Development Initiative) là những chương trình đối
ngoại kinh tế và an ninh của Trung Quốc mà Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược.
Hà Nội hiện nay không muốn – hay không thể do áp lực từ Bắc Kinh – đưa
ra những chính sách đối ngoại thân thiết hơn với Mỹ dù Mỹ từ thời Tổng thống
Barack Obama đã nhận ra một Trung Quốc mạnh về kinh tế đang mở rộng quyền kiểm
soát an ninh toàn cầu nên có chủ trương xoay trục về Đông Á để bảo đảm an ninh
khu vực. Khi Tổng thống Donald Trump làm lãnh đạo, Hoa Kỳ đã tuyên chiến thương
mại với Trung Quốc dẫn đến quan hệ Mỹ-Trung như đóng băng từ 6 năm qua.
Đã có những khảo sát ý kiến cho thấy dân Việt có
nhiều cảm tình với Hoa Kỳ hơn là với Trung Quốc. Hà Nội sẽ có những chính sách
phù hợp với lòng dân, hay vẫn theo ý đảng, chọn Trung Quốc dựa trên “4 tốt” là:
“láng giềng tốt, bạn bé tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” và với phương châm “16
chữ vàng” là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai” mà hai Đảng Cộng sản đã đồng thuận với nhau?
Tháng 5 vừa qua Thủ tướng Phạm Minh Chính có chuyến đi Mỹ, trong khi chờ
gặp ngoại trưởng Antony Blinken, các thành viên của đoàn, gồm cả tướng Tô Lâm
đã tám chuyện với nhau. Ông Chính bênh vực cho quan điểm ủng hộ Nga xâm lăng
Ukraine của Việt Nam với câu nói: “Rõ ràng, sòng phẳng. M.. n.., sợ gì”. Đoạn
phim này đã được đưa lên trang mạng của bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trước khi được gỡ
xuống.
Hà Nội muốn Tổng thống Joe Biden đến thăm Việt Nam.
Nhưng đó là hy vọng xa vời vì sau những lần chuyển lời mời và nhiều vận động
ngoại giao, một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng vẫn chưa diễn ra. Với tình hình quan hệ hiện nay, lãnh đạo Mỹ có lẽ
không sang thăm Việt Nam cho đến sau bầu cử 2024.
Quan hệ Mỹ-Việt đang chậm lại. Nhiều công ti Mỹ đã, đang rời Trung Quốc
và tìm kiếm các quốc gia khác để thiết lập công xưởng. Với chính sách ngoại
giao theo Trung Quốc và Nga như đã được Hà Nội thể hiện, liệu Việt Nam có phải
là lựa chọn bền vững cho các công ti Hoa Kỳ?
Chọn theo Nga và Trung Quốc, Hà Nội đang đánh mất những cơ hội đưa phát
triển kinh tế của Việt Nam lên tầm cao để mau tiến bộ bằng Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan.
Bùi Văn Phú
No comments:
Post a Comment