Gia
tăng xuất khẩu lao động và cải thiện thứ hạng về tệ nạn... ‘buôn người’
26/01/2023
Muốn biết Mỹ dựa vào đâu và đánh giá như thế nào về
tệ nạn “buôn người” ở Việt Nam thì cần đọc “Báo cáo Thường niên về tệ nạn buôn
người” năm 2022 của Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung báo cáo sẽ giúp mỗi người tự thẩm
định, phía Mỹ có “khách quan, chính xác” hay không.
https://gdb.voanews.com/01630000-0aff-0242-07a1-08da8694593a_w1023_r1_s.jpg
Theo một nghị quyết của
Chính phủ Việt Nam vào tháng 7/2022, những người tham gia chương trình xuất khẩu
lao động sang Hàn Quốc được vay tiền ký quỹ 100 triệu đồng. Photo Cổng thông
tin Chính phủ. Hình minh họa.
Kinh tế suy thoái, thất nghiệp tràn lan và hệ thống chính trị, hệ thống
công quyền từ trung ương đến địa phương tại Việt Nam loay hoay không biết làm
gì để cải thiện tình hình giúp tất cả các giới, đặc biệt là thanh niên, các
thành phần yếu thế thoát ra khỏi tình trạng càng ngày càng bế tắc. Đó là lý do
trong vài năm gần đây, các viên chức hữu trách ở nhiều cấp thi nhau tán dương
xuất khẩu lao động (XKLĐ) [1] , xem XKLĐ như phương thức tối ưu để... “phát
triển kinh tế, xã hội” (2) và quan trọng nhất là giúp giảm bớt bất bình,
duy trì... “sự ổn định chính trị”.
Tuy nhiên, với các đặc điểm như đã biết về hệ thống chính trị, hệ thống
công quyền tại Việt Nam, cho dù gia tăng XKLĐ có thể tạo ra nguồn thu khổng lồ
từ kiều hối (3), giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống thấp hơn, hỗ trợ “xóa đói, giảm
nghèo” tốt hơn nhưng song hành với gia tăng XKLĐ là việc liên tục bị các
chính phủ, các tổ chức quốc tế lên án vì dung dưỡng “buôn người” (4),
khó tránh khỏi việc bị chế tài. Giải quyết mâu thuẫn này tất nhiên là trách nhiệm
của giới hữu trách nhưng hiểu tường tận quan niệm của thiên hạ về “buôn người”
có thể giúp những cá nhân đã hoặc đang tham gia vào “sự nghiệp” XKLĐ sử
dụng các phương thức hỗ trợ từ bên ngoài Việt Nam để chống bị lạm dụng...
***
Dựa trên “Đạo luật Bảo vệ nạn nhân của tình trạng
buôn người” (TVPA), mỗi năm, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố “Báo cáo Thường
niên về tệ nạn buôn người”. Căn cứ kết quả khảo sát về thực trạng và cách
thức giải quyết tệ nạn, mỗi năm, mỗi quốc gia sẽ được xếp vào một trong ba loại:
“Loại một” bao gồm những quốc gia mà chính phủ tuân thủ đầy đủ những
tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA nhằm xoá bỏ tệ nạn buôn người. “Loại hai”
bao gồm những quốc gia mà chính phủ không tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn của
TVPA nhưng có nỗ lực đáng kể nhằm tuân thủ những tiêu chuẩn đó.
Trong “loại hai” có thêm “loại 2 cần theo dõi” nếu: Số lượng
nạn nhân của các hình thức buôn người nghiêm trọng ở mức đáng kể hoặc đang gia
tăng đáng kể. Không thấy bằng chứng về việc gia tăng nỗ lực chống các hình thức
buôn người nghiêm trọng từ năm trước đó, trong đó có gia tăng điều tra, truy tố
và kết án các hành vi buôn người, gia tăng giúp đỡ các nạn nhân và càng ngày
càng ít chứng cứ cho thấy các viên chức có dính líu đến các hình thức buôn người
nghiêm trọng, hoặc việc xác định một quốc gia đang có những nỗ lực đáng kể để
tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu dựa trên các cam kết của quốc gia đó sẽ thực
thi thêm các biện pháp trong năm kế tiếp. “Loại ba” là những quốc gia mà
chính phủ không tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu và không cho thấy nỗ
lực đáng kể nhằm tuân thủ các tiêu chuẩn đó.
TVPA liệt kê nhiều yếu tố để có thể dựa vào đó xếp một quốc gia vào “loại
hai” hoặc “loại 2 cần theo dõi”, hay “loại ba”. Thứ nhất, mức
độ về điểm xuất phát, trung chuyển hay điểm đến của các hình thức buôn người
nghiêm trọng. Thứ hai, mức độ không tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA
và mức độ các viên chức tiếp tay cho các hình thức buôn người nghiêm trọng. Thứ
ba là những biện pháp để thực thi các tiêu chuẩn tối thiểu phù hợp với các nguồn
lực hiện có và phù hợp với năng lực giải quyết hoặc xoá bỏ các hình thức buôn
người nghiêm trọng.
Việc phân loại các quốc gia trong những “Báo cáo Thường niên về tệ nạn
buôn người” còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó có trì trệ trong việc cải
thiện thứ hạng hay không. Chẳng hạn nếu quốc gia nào bị xếp vào “loại hai cần
theo dõi” trong hai năm liền và vẫn bị xếp vào “loại hai cần theo
dõi” ở năm tiếp theo thì sẽ bị xếp vào “loại ba”. Trong “Báo cáo
Thường niên về tệ nạn buôn người” mới nhất (2022), Việt Nam bị xếp vào “loại
ba”. Hậu quả của việc bị xếp vào “loại ba” khá... đa dạng: Chính phủ
Mỹ có thể dừng hoặc rút lại các chương trình hỗ trợ không vì mục đích nhân đạo
hoặc không liên quan đến thương mại.
Những quốc gia bị xếp “loại ba” có thể sẽ không được hỗ trợ để
viên chức tham gia các chương trình trao đổi giáo dục và văn hoá. Theo quy định
của TVPA, chính phủ của các quốc gia bị xếp vào “loại ba” còn phải đối mặt với
nguy cơ bị những trừng phạt khác, sẽ phải đối diện với việc Mỹ phản đối các tổ
chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới cấp
các khoản hỗ trợ, trừ hỗ trợ vì mục đích nhân đạo, có liên quan đến thương mại
và các khoản hỗ trợ liên quan nhất định đến phát triển (5).
***
Cách nay khoàng mươi ngày, ông Nguyễn Minh Vũ - Thứ trưởng Thường trực
của Bộ Ngoai giao Việt Nam đã có buổi hội đàm với bà Kari Johnstone, Quyền Giám
đốc Văn phòng Theo dõi và chống mua bán người (J/TIP) của Bộ Ngoại giao Mỹ tại
Hà Nội. Ông Vũ khẳng định: Phòng, chống mua bán người luôn là một trong những
ưu tiên của phía Việt Nam. Thời gian vừa qua, công tác phòng, chống mua bán người
đã đạt được những kết quả hết sức tích cực, nhất là trong lĩnh vực hoàn thiện
chính sách pháp luật. Sắp tới, Việt Nam sẽ sửa đổi Luật Phòng, chống mua bán
người. Ông Vũ đề nghị: Phía Mỹ có đánh giá khách quan, chính xác về những nỗ lực
của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người và đưa Việt Nam ra khỏi “Báo
cáo Thường niên về tệ nạn buôn người” năm 2023, góp phần thúc đẩy hơn nữa
quan hệ hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập
quan hệ Đối tác toàn diện Việt – Mỹ (6)...
Muốn biết Mỹ dựa vào đâu và đánh giá như thế nào về tệ nạn “buôn người”
ở Việt Nam thì cần đọc “Báo cáo Thường niên về tệ nạn buôn người” năm
ngoái (2022) của Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung báo cáo sẽ giúp mỗi người tự thẩm định,
phía Mỹ có “khách quan, chính xác” hay không. Tuy nhiên đó chưa phải là
điều quan trọng nhất. Khi XKLĐ đã cũng như đang là xu thế, thậm chí được một số
viên chức hữu trách nâng lên thành.... “nhiệm vụ trọng tâm”, hiểu quan
niệm của thiên hạ về “buôn người” sẽ giúp những cá nhân và gia đình có
thân nhân tham gia XKLĐ, tham gia “phòng, chống mua bán người” để không
bị bất kỳ phía nào “đè đầu, cưỡi cổ”... Đó sẽ là phần tiếp theo của bài
viết này.
------------------
Chú thích
(3) https://thanhnien.vn/kieu-hoi-ve-tphcm-dat-hon-66-ti-usd-post1544292.html
(4) https://www.dw.com/en/how-eu-police-disrupted-vietnamese-human-trafficking-rings/a-64013468
(5) https://vn.usembassy.gov/vi/bao-cao-tinh-hinh-buon-nguoi-nam-2011/
***
Gia
tăng xuất khẩu lao động và cải thiện thứ hạng về tệ nạn... ‘buôn người’ (p2)
26/01/2023
Ngoài Việt Nam còn có Campuchia, Brunei bị xếp vào
“loại ba” – loại thấp nhất hay còn gọi là bị đưa vào “danh sách đen” vì tệ nạn
“buôn người”...
https://gdb.voanews.com/9F73BA9C-92D6-4BBB-B19B-1C3B10B765AC_w1023_r1_s.jpg
Viếng và ký sổ tang
chia buồn trong vụ 39 nạn nhân Việt Nam thiệt mạng tại Anh năm 2019.
Tháng 7 năm ngoái, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố “Báo cáo Thường niên về
tệ nạn buôn người 2022” (Báo cáo TIP - Trafficking in Persons – 2022) sau
khi khảo sát hoạt động phòng, chống buôn người của 188 quốc gia. Ngoài Việt Nam
còn có Campuchia, Brunei bị xếp vào “loại ba” – loại thấp nhất hay còn gọi
là bị đưa vào “danh sách đen” vì tệ nạn “buôn người” (dung dưỡng cưỡng bức lao
động, nô lệ tình dục). Vào thời điểm này, có 5/11 quốc gia thuộc khối ASEAN bị
xếp vào “loại ba” (hai quốc gia còn lại đã thuộc “loại ba” là
Malaysia và Myanmar) [1].
Đáp lại, chính quyền Việt Nam khẳng định: Một trong những ưu
tiên hàng đầu của Việt Nam là “phòng, chống mua bán người” và công
tác “phòng, chống mua bán người” đã đạt được những kết quả hết sức tích cực,
nhất là trong lĩnh vực hoàn thiện chính sách pháp luật. Chính quyền Việt
Nam yêu cầu Mỹ... đánh giá khách quan, chính xác về những nỗ lực của Việt
Nam trong “phòng, chống mua bán người” và đưa Việt Nam ra khỏi “Báo
cáo TIP 2023”, góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước trong bối
cảnh kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt – Mỹ... (2).
Bộ Ngoại giao Mỹ dựa vào đâu để hạ Việt Nam từ “loại hai cần theo
dõi” xuống “loại ba” và đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia nằm trong “danh
sách đen”? Cách tốt nhất để tự xác định “đánh giá” của Mỹ có “khách
quan, chính xác” hay không là xem qua Báo cáo
TIP 2022 về việc “phòng, chống mua bán người” tại Việt Nam
– loại tài liệu vốn vẫn được công bố theo định kỳ nhưng trước nay, từ chính quyền
đến hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam vừa phản đối, vừa phớt lờ nội
dung, không so sánh - phân tích để chứng minh thiếu... khách quan và thiếu...
chính xác như thế nào (3)...
***
Ở phần về Việt Nam trong Báo cáo TIP 2022, Bộ Ngoại
giao Mỹ giải thích, sở dĩ họ chuyển Việt Nam sang “loại ba” là vì: Chính
phủ Việt Nam không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu để loại bỏ nạn buôn
người và không có nỗ lực đáng kể để thực hiện điều đó, kể cả khi xem xét tác động
của đại dịch COVID-19 đối với năng lực chống buôn người của Việt Nam. Theo
số liệu do Việt Nam cung cấp, Bộ Ngoại giao Mỹ phát giác có sự sụt giảm năm
năm liên tiếp trong việc kết án những kẻ buôn người, số vụ truy tố ít hơn
đáng kể so với 2020. Giới hữu trách tiếp tục kiểm tra hàng ngàn cơ sở có khả
năng xảy ra nguy cơ buôn bán tình dục cao nhất nhưng không xác định được bất kỳ
nạn nhân nào dù các cơ sở này rất phổ biến.
Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ sự lo ngại đáng kể về “sự đồng lõa của viên
chức”, trong đó có các trường hợp được cho là do hai thành viên của
cơ quan ngoại giao Việt Nam thực hiện. Một viên chức Bộ Ngoại giao Việt Nam được
cho là đã quấy rối, đe dọa và hạn chế liên lạc với một số nạn nhân của vụ cưỡng
bức lao động xảy ra tại Saudi Arabia (Ả rập Xê út) sau khi họ cố gắng
yêu cầu hỗ trợ. Một số nạn nhân đã trốn thoát và cố gắng tìm kiếm sự trợ giúp tại
Đại sứ quán Việt Nam nhưng bị chính viên chức đó cưỡng chế trao trả cho những kẻ
buôn người. Trong những trường hợp khác, sau khi những người sống
sót tìm nơi trú ẩn với một tổ chức địa phương, chính quan chức này được cho là
đã lừa dối họ bằng hứa hẹn về việc hồi hương để dụ họ ra ngoài và sau đó “bán”
họ cho những người chủ mới ở địa phương, những người này tiếp tục bóc lột nạn
nhân bằng cưỡng bức lao động. Các tổ chức phi chính phủ và cảnh sát Saudi
Arabia đã tiến hành gom và hồi hương hầu hết nạn nhân - được cho là không có bất
kỳ sự trợ giúp nào từ chính phủ Việt Nam - bất chấp luật pháp Việt Nam quy định
cung cấp chi phí hồi hương cho tất cả người Việt là nạn nhân của nạn buôn người
ra nước ngoài. Một tổ chức quốc tế đã phỏng vấn 10 phụ nữ hồi hương từ Saudi
Arabia và đánh giá bốn người là nạn nhân của nạn buôn người. Chính quyền địa
phương đã cố gắng yêu cầu đại diện tại Việt Nam của một trong các công ty phải
bồi thường cho nạn nhân, tuy nhiên, trong một số trường hợp, tiền bồi thường chỉ
được trả một phần hoặc hoàn toàn không trả đồng nào.
Bộ Ngoại giao Mỹ kể thêm: Theo báo cáo, chính phủ đã kiểm tra,
thanh tra và xử phạt hành chính 10 trong số 20 doanh nghiệp đưa lao động sang
Saudi Arabia nhưng các cơ quan hữu trách không truy cứu trách nhiệm hình sự về
việc tạo điều kiện cho tội phạm buôn người. Giới hữu trách cũng phạt một công
ty xuất khẩu lao động (XKLĐ) vì không giải quyết được tranh chấp về tiền lương,
điều mà đại diện các tổ chức phi chính phủ giải thích là hành động trả đũa của
chính phủ Việt Nam đối với những nỗ lực ban đầu của họ nhằm đáp ứng các cáo buộc
của nạn nhân bằng các dịch vụ hỗ trợ. Theo báo cáo, tại Việt Nam, thay vì hỗ trợ,
công an đã sách nhiễu và theo dõi các thành viên trong gia đình một số nạn nhân
như nỗ lực dập tắt các cáo buộc liên quan.
Một điểm khác cũng khiến Bộ Ngoại giao Mỹ đặc biệt lưu ý: Do
thiếu triển khai một cách có hệ thống quy trình sàng lọc lấy nạn nhân làm trung
tâm, trong các cuộc truy quét của công an vào những cơ sở có nguy cơ buôn
bán tình dục cao nhất, có thể giới hữu trách đã phạt một số phụ nữ và trẻ
em vì những hành vi trái pháp luật mà những kẻ buôn người đã xúi giục họ thực
hiện. Sự thiếu sót này cũng là lý do khiến các nạn nhân nước ngoài, bao gồm
cả trẻ em, có nguy cơ bị trục xuất cao, mặc dù chính phủ tuyên bố họ đã sàng lọc
tất cả các cá nhân bị trục xuất để tìm các dấu hiệu buôn người và không xác định
được bất kỳ trường hợp nào như vậy. Trước đây, các tổ chức dân sự từng
báo cáo về việc các nạn nhân Việt Nam di cư bằng các phương tiện bất hợp
pháp hoặc những người bị buộc phải thực hiện các hành vi bất hợp pháp do bị
buôn bán vì sợ bị chính quyền trả thù. Những nạn nhân này ít có khả năng tìm kiếm
sự hỗ trợ và dễ bị buôn bán trở lại. Giới quan sát quốc tế từng nói về
việc các viên chức thường đổ lỗi cho công dân về tình trạng họ bị bóc lột ở
nước ngoài hoặc đề nghị các nạn nhân thổi phồng sự lạm dụng để tránh vi phạm luật
nhập cư. Chính phủ Việt Nam không báo cáo về việc đưa ra các lựa chọn thay
thế hợp pháp cho các nạn nhân nước ngoài để chuyển họ đến các quốc gia nơi họ
có thể phải đối mặt với sự trừng phạt hoặc khó khăn.
***
Theo đánh giá tổng quát của Bộ Ngoại giao về tệ nạn buôn người tại Việt
Nam: Trong năm năm qua, bọn buôn người đã bóc lột nạn nhân
trong và ngoài nước tại Việt Nam, đồng thời bóc lột nạn nhân từ Việt Nam
ra nước ngoài. Đàn ông và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài để làm việc
theo kiểu phi chính thức, bao gồm thông qua mạng lưới môi giới bất hợp
pháp do các công dân Việt Nam khác ở ngoại quốc điều hành, hoặc thông qua
các doanh nghiệp tuyển dụng lao động thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước quản
lý. Một số doanh nghiệp tuyển dụng không đáp ứng yêu cầu hỗ trợ của người
lao động khi họ bị bóc lột, một số tính phí quá cao khiến người lao động nợ nần
dễ bị cưỡng bức lao động. Những kẻ buôn người cưỡng bức nạn nhân lao động
trong lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, khai thác mỏ, hàng hải, khai thác và
sản xuất gỗ, chủ yếu ở Malaysia, Nam Hàn, Lào, Nhật và - ở mức độ
thấp hơn - một số khu vực ở Trung Đông, châu Âu và Vương quốc Anh, bao gồm
cả các tiệm làm móng, các trang trại cần sa.
Ngày
càng có nhiều báo cáo về nạn nhân buôn người là công dân Việt Nam ở Đài
Loan, lục địa châu Âu, Trung Đông và trong lĩnh vực hàng hải khu vực
Thái Bình Dương, kể cả trên các tàu đánh cá của Indonesia và Đài Loan
dưới các dạng thỏa thuận phức tạp giúp những kẻ buôn người trốn tránh sự
phát hiện và can thiệp của cơ quan thực thi pháp luật. Nhiều công dân Việt
Nam bị cưỡng bức lao động dưới sự bảo trợ của TITP (Chương
trình Thực tập sinh kỹ năng) của Nhật và trong các chương trình
giáo dục nông nghiệp ở Israel. Công dân Việt Nam bị hạn chế đi lại, bị tịch thu
giấy tờ tùy thân, đe dọa hành hung, điều kiện sống và làm việc tồi tệ, vi
phạm hợp đồng, tuyển dụng gian lận và bị trừng phạt tại các nhà máy thuộc sở hữu
quốc gia của Trung Quốc có liên quan với ‘Sáng kiến Vành đai và Con
đường” của Trung Quốc ở vùng Balkan.
Những hạn
chế đi lại liên quan đến phòng ngừa đại dịch đã mở rộng các lỗ hổng
này đối với nhiều lao động Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm cả việc buộc một số
người phải ở lại lâu hơn thời hạn đã ký trên hợp đồng. Những kẻ
buôn người đang tận dụng tình trạng thất nghiệp do đại dịch gây ra để dụ dỗ
công dân Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ và thành viên của các nhóm thiểu số, với
những lời hứa hão huyền về cơ hội việc làm ở ngoại quốc. Những kẻ buôn người
khai thác phụ nữ và trẻ em Việt Nam để buôn bán tình dục, đánh lừa nhiều nạn
nhân bằng các cơ hội việc làm lừa đảo và chuyển họ đến các nhà thổ ở biên
giới Trung Quốc, Campuchia và Lào hoặc đến các nơi khác ở châu Á, Tây Phi và
châu Âu. Theo báo cáo, ngày càng có nhiều phụ nữ và bé gái Việt Nam bị
buôn bán tình dục ở Miến Điện. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn
do môi giới quốc tế hoặc làm việc trong các nhà hàng, tiệm massage, quán
karaoke - bao gồm cả Miến Điện, Nhật, Nam Hàn, Malaysia, Trung Quốc,
Saudi Arabia, Singapore và Đài Loan - bị cưỡng bức lao động dưới dạng
giúp việc gia đình hoặc buôn bán tình dục. Theo báo cáo, những kẻ buôn người
ở các làng biên giới đã bắt cóc phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là từ nhóm thiểu số
Hmong và vận chuyển họ đến Trung Quốc để cưỡng ép hôn nhân thường có các dấu
hiệu buôn bán tình dục hoặc lao động cưỡng bức. Đã có những báo cáo về phụ nữ
và bé gái Việt Nam bị ép sinh con, bao gồm cả những trường hợp bọn buôn người dụ
dỗ họ đến Trung Quốc bằng những lời mời làm việc giả, bắt cóc họ ở biên giới và
chuyển họ đến các bệnh viện không được kiểm soát, nơi họ bị cưỡng bức thụ tinh
nhân tạo và bị nhốt cho đến khi sinh con. Phụ nữ và bé gái Việt Nam được cho là
dễ bị cưỡng bức lao động và bị buôn bán tình dục tại các “quán bar dành cho nữ” -
các trang web giải trí quảng cáo các dịch vụ “đi kèm” có trả tiền thường liên
quan đến hành vi tình dục với phụ nữ và bé gái ở các khu vực thành thị
tại Nhật. Các tập đoàn tội phạm có tổ chức hoạt động trong các đặc khu kinh tế
(SEZ) ở Đông Nam Á - đặc biệt là tại Đặc khu Tam giác vàng giao giữa biên
giới Miến Điện, Thái Lan và Lào - khiến các công dân Việt Nam trở thành đối
tượng tuyển dụng lừa đảo và buôn bán tình dục. Những kẻ buôn người
đang gia tăng sử dụng Internet, các trang web trò chơi và mạng xã hội để dụ
dỗ nạn nhân, mở rộng hoạt động buôn người và kiểm soát nạn nhân bằng cách hạn
chế quyền truy cập mạng xã hội của họ, mạo danh họ, truyền bá thông tin sai lệch.
Đàn ông thường lôi kéo phụ nữ và bé gái bằng các mối quan hệ hẹn hò trực
tuyến, thuyết phục họ chuyển ra nước ngoài, sau đó ép họ lao động hoặc buôn bán
tình dục. Trong quá trình di cư, các băng đảng châu Âu và những kẻ buôn người
thường bóc lột nạn nhân Việt Nam dưới hình thức lao động cưỡng bức và buôn bán
tình dục trước khi họ đến đích cuối cùng. Những người điều hành các đồn điền
thuộc sở hữu quốc gia của Việt Nam cưỡng bức những người di cư trong nước
lao động ở Lào.
Trong
nước, tình trạng thất nghiệp liên quan đến đại dịch, hạn chế đi lại và các yếu
tố gây căng thẳng kinh tế xã hội khác đang làm gia tăng tình trạng dễ bị buôn
bán, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em ở khu vực nông thôn và các
nhóm thiểu số. Một nghiên cứu chỉ ra rằng 80% nạn nhân buôn người được biết
đến ở Việt Nam là thành viên của các cộng đồng thiểu số. Một nghiên cứu
khác cho thấy 5,6% trẻ em ở Việt Nam có thể bị ép buộc hoặc bóc lột do bị buôn
bán hoặc trong bối cảnh di cư, trong đó trẻ em từ các cộng đồng nông thôn và
thiếu thốn có nguy cơ đặc biệt cao. Những kẻ buôn người bóc lột trẻ em và người
lớn bằng cưỡng bức lao động trong lĩnh vực may mặc, bán rong và ăn xin trên đường
phố ở các trung tâm đô thị lớn, hoặc ép buộc lao động trong các nhà máy gạch,
nhà ở đô thị và các mỏ vàng tư nhân. Những kẻ buôn bán tình dục nhắm mục tiêu
vào nhiều trẻ em từ các vùng nông thôn nghèo khó và ngày càng nhiều phụ nữ thuộc
tầng lớp trung lưu và thành thị. Những kẻ buôn người càng ngày càng hướng
các hoạt động tội phạm thông qua thủ đoạn truyền thống là “bắt cóc cô dâu” để
bóc lột các cô gái thuộc các cộng đồng thiểu số ở vùng cao nguyên Tây Bắc, bao
gồm cả buôn bán tình dục và cưỡng bức giúp việc gia đình. Khách du lịch tình dục
trẻ em, được cho là đến từ các nơi khác ở châu Á, Vương quốc Anh, các quốc gia
khác ở châu Âu, Úc, Canada và Mỹ để bóc lột trẻ em ở Việt Nam.
Báo cáo TIP 2022 còn khá nhiều thông tin đáng chú ý khác: Có thể
chính phủ Bắc Hàn đã buộc người Bắc Hàn làm việc tại Việt Nam. Vào
năm 2021, các viên chức Việt Nam và tổ chức phi chính phủ đã báo cáo sự
gia tăng nạn nhân buôn người là trẻ em và phụ nữ Campuchia quá cảnh
Việt Nam trên đường đến Trung Quốc. Trong những năm trước đã có báo cáo về việc
một số viên chức Việt Nam - chủ yếu ở cấp xã và thôn - bị cáo buộc
đã tạo điều kiện cho nạn nhân bị buôn bán hoặc bóc lột bằng cách nhận hối lộ từ
những kẻ buôn người, bỏ qua các dấu hiệu buôn người và tống tiền để đổi lấy việc
nạn nhân đoàn tụ với gia đình của họ...
Không ít thông tin, nhận định như vừa trích dẫn trong Báo cáo TIP 2022
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thật ra không mới với nhiều người Việt bởi họ hoặc là
“người trong cuộc”, hoặc là thân nhân “người trong cuộc”, hoặc đã thấy, đã nghe
khi thì ở chỗ này, lúc thì ở chỗ khác. Điểm đặc biệt mới chỉ là hệ thống chính
trị, hệ thống công quyền Việt Nam chưa bao giờ công bố báo cáo nào vừa có tính
khái quát cao, vừa rõ ràng, rành rọt như vậy về vấn nạn buôn người tại Việt Nam
để người Việt biết mà cảnh giác. Cũng vì vậy, khi số lượng người tham gia vào
các chương trình, kế hoạch XKLĐ gia tăng, người Việt có thể làm gì để tự bảo vệ
mình và thân nhân của mình, cao hơn, cùng cộng đồng quốc tế tham gia chống buôn
người sẽ là nội dung phần 3 – phần cuối cùng.
-----------
Chú thích
(1) https://thediplomat.com/2022/07/us-adds-vietnam-cambodia-brunei-to-human-trafficking-blacklist/
(3) https://www.state.gov/reports/2022-trafficking-in-persons-report/vietnam/#report-toc__exec-summary
No comments:
Post a Comment