Monday, January 23, 2023

ĐẢNG BỎ BÊ ĐẠI HỌC, THẾ HỆ TRẺ và TƯƠNG LAI DÂN TỘC, TỪ BAO LÂU? (Phạm Đình Bá / VNTB)

 



Đảng đã bỏ bê đại học, thế hệ trẻ và tương lai dân tộc từ bao lâu ?

Phạm Đình Bá

21/01/23

https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/27539-d-ng-da-b-be-d-i-h-c-th-h-tr-va-tuong-lai-dan-t-c-t-bao-lau

 

Đảng cộng sản Việt Nam và ông Nguyễn Phú Trọng đã bỏ bê giáo dục đại học và việc đào tạo hàng hàng thế hệ thanh niên từ hơn 12 năm qua.

 

https://live.staticflickr.com/65535/52643254389_8f48437328.jpg

 Việt Nam có thể tăng cường đáng kể khả năng tiếp cận và công bằng giáo dục đại học bằng cách tăng cường sự khác biệt giữa các trường. Ảnh minh họa

 

Gần đây trên báo Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Đức Cảnh khơi gợi rằng đây là thời điểm phù hợp để xây dựng các trường đại học phi lợi nhuận ở Việt Nam [1]. Trạng thái đăng ký, dù là công khai hay tư nhân, thường không tương quan với chất lượng của dịch vụ giáo dục cung cấp [2]. Ví dụ về các trường đại học công lập hàng đầu bao gồm Oxford và Cambridge, hai trường đại học lâu đời nhất ở Vương quốc Anh. Hai trường nầy được chỉ định là trường đại học công lập vì họ nhận được một số tài trợ của chính phủ. Trong khi đó, các trường đại học có trụ sở tại Hoa Kỳ, chẳng hạn như Viện Công nghệ California (Caltech), Đại học Stanford, MIT, Princeton và Harvard đều được công nhận là trường đại học tư thục và đồng thời phi lợi nhuận. Vấn đề nằm ở các trường đại học tư nhân vì lợi nhuận đôi khi họ bị buộc tội nhận sinh viên có thể không đủ chuẩn và ưu tiên sự hài lòng và duy trì của sinh viên hơn là chất lượng giáo dục [2].

 

Điều gì quan trọng nhất trong việc xác định chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học ? Có vẻ như nó không phải luôn luôn là giấy đăng ký, mặc dù các trường đại học tìm kiếm lợi nhuận đôi khi có vấn đề. Nó là rất nhiều thứ khác, đặc biệt là trong cách làm việc kềm kẹp của đảng ở quê nhà.

 

Nguyễn Phú Trọng không học bài học từ Đặng Tiểu Bình. Chính sách cải cách giáo dục sâu rộng của Đặng Tiểu Bình, liên quan đến tất cả các cấp của hệ thống giáo dục, nhằm thu hẹp khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước đang phát triển khác [3]. Hiện đại hóa Trung Quốc gắn liền với hiện đại hóa giáo dục. Đặc biệt, hệ thống tuyển sinh và phân công công việc trong giáo dục đại học đã được thay đổi, và sự kiểm soát quá mức của chính phủ đối với các trường cao đẳng và đại học đã giảm bớt. Ở đây, cũng không cần nói nhiều về mức phát triển ở Trung Quốc từ những năm 1980 đến 2012.

 

Ngược lại, đảng ở Việt Nam và ông Nguyễn Phú Trọng đã bỏ bê giáo dục đại học và việc đào tạo hàng hàng thế hệ thanh niên từ hơn 12 năm qua. Để có cái nhìn tổng thể về việc làm của ông Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ấy, hãy nhìn lại báo cáo về tình trạng giáo dục đại học từ Ngân hàng Thế giới năm 2020 [4].

 

Giáo dục đại học là cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội [4]. Giáo dục đại học hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo bằng cách (a) đào tạo nhân lực có kỹ năng và lực lượng lao động có khả năng thích ứng, (b) tạo ra tri thức mới thông qua nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, và (c) thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua ứng dụng tri thức và công nghệ. Các tiến bộ của các nền kinh tế Đông Á trong những năm gần đây minh họa mối quan hệ cộng sinh mạnh mẽ giữa giáo dục, đổi mới và tăng trưởng.

 

Đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao cũng như khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là cần thiết để thực hiện ước mơ để Việt Nam có thu nhập trung bình cao vào năm 2035 [4]. Khát vọng phát triển của Việt Nam tạo cơ hội cho đất nước sử dụng hệ thống giáo dục đại học như một nền tảng để chuyển đổi chất lượng nhân sự lành nghề, đặc biệt những người làm việc trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, và kỹ năng để quản lý đất nước trước rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu.

 

Việt Nam xếp thứ 48 trong số 157 quốc gia về Chỉ số vốn con người của Ngân hàng Thế giới, kết quả tốt nhất trong số các quốc gia có thu nhập trung bình [4]. Việt Nam đặc biệt mạnh về khả năng tiếp cận và chất lượng giáo dục phổ thông. Số năm đi học trung bình của Việt Nam, đã điều chỉnh cho việc học, là 10,2 năm, chỉ đứng sau Singapore trong số các nước thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam chưa sẵn sàng tận dụng tiềm năng to lớn này của những người trẻ mới tốt nghiệp phổ thông. 

 

Khả năng tiếp cận giáo dục đại học của Việt Nam, được đo bằng tỷ lệ nhập học chung, là dưới 30%, một trong những mức thấp nhất trong số các nước Đông Á. Tỷ lệ tốt nghiệp đại học chỉ là 19 phần trăm, thấp hơn nhiều so với các nước. Vì vậy Việt Nam đang đứng ngoài cuộc khi so sánh với các quốc gia trong khu vực và toàn cầu. Hậu quả là Việt Nam sẽ tụt hậu trong cạnh tranh quốc tế về tăng trưởng công nghệ, kinh tế và văn hóa qua sự tận dụng thế hệ trẻ.

 

Việt Nam đã thử nghiệm một số cải cách giáo dục đại học trong hai thập kỷ qua, với một số thành công trong việc mở rộng quyền truy cập, nhưng bỏ lỡ cơ hội đạt được kết quả tốt trên chất lượng và mức độ phù hợp cũng như tăng cường công bằng [4].

 

Giáo dục đại học của Việt Nam mở rộng nhanh chóng từ năm 2000 đến năm 2010, nhưng số lượng sinh viên nhập học đã bị đình trệ kể từ đầu những năm 2010, phần lớn là do chính sách của Chính phủ đã cắt đứt tăng trưởng định lượng [4]. Tăng số lượng tuyển sinh từ 0,9 triệu lên 2,3 triệu sinh viên từ năm 2000 đến 2010 là do số lượng tuyển sinh tăng mạnh trong các cơ sở giáo dục đại học tư và các cơ sở cao đẳng và đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, với sự tăng trưởng tương ứng về nguồn cung giảng viên và tăng số lượng học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông. Sau đó, nhà nước điều chỉnh giảm đáng kể chỉ tiêu tuyển sinh năm 2020, từ 4,5 triệu xuống 2,2 triệu. Tại sao ?

 

Trình độ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực như Philippines, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Trung Quốc [4]. Số lượng tài liệu trích dẫn trên một triệu dân của Việt Nam cao hơn Philippines nhưng thấp hơn một chút so với Indonesia và thấp hơn nhiều so với Malaysia, Singapore và Thái Lan. Khi được đo bằng chỉ số H-index, phản ánh cả chất lượng và tác động của kết quả nghiên cứu, Việt Nam xếp hạng dưới tất cả các quốc gia này. 

 

Về chuyển giao công nghệ, Việt Nam có tỷ lệ bằng sáng chế thấp với 1,24 bằng sáng chế trên một triệu dân, thấp hơn 10% so với Malaysia và dưới 1% so với Trung Quốc [4]. Những thách thức cơ bản chính đối với mức độ thấp của nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là tài chính không đủ và không hiệu quả, thiếu tài năng nghiên cứu quan trọng và không đủ liên kết với giới nghiên cứu toàn cầu, liên kết giữa các trường đại học và doanh nghiệp yếu, và cơ sở hạ tầng yếu kém về nghiên cứu, công nghệ thông tin và truyền thông.

 

Xét về mặt chỉ đạo ở cấp quốc gia, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam rất rời rạc trên nhiều khía cạnh [4]. Không có cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm cho toàn bộ hệ thống nghiên cứu và giáo dục đại học. Hai bộ riêng biệt, Bộ Giáo dục và Bộ Lao động lần lượt chịu trách nhiệm quản lý các trường đại học và cao đẳng, ít có sự phối hợp với nhau và kết nối giữa các trường. Hai đại học quốc gia, mỗi đại học bao gồm một số trường đại học chuyên ngành, do Văn phòng Thủ tướng trực tiếp quản lý. Một yếu tố phức tạp nữa là sự tồn tại của hàng trăm viện nghiên cứu, trong hầu hết các trường hợp hoạt động độc lập với các trường đại học, dẫn đến việc sử dụng nguồn nhân lực và tài chính kém hiệu quả.

 

Mặc dù có những thay đổi triển vọng trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018, nhưng nhiều quy định được ban hành trong những năm gần đây từ Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Nội vụ, đã góp phần làm phức tạp khung pháp lý của việc quản trị đại học. Nhiều quy định đôi khi mâu thuẫn với các nghị định/thông tư do các cơ quan khác nhau ban hành, khiến cho việc quản lý trường đại học trở nên phức tạp và kém hiệu quả một cách không cần thiết [4].

 

Trái với các nước trong vùng, Việt Nam thiếu hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học và hệ thống thông tin thị trường lao động thống nhất ở cấp quốc gia [4]. Điều này cản trở việc ra quyết định dựa trên bằng chứng từ tất cả các bên liên quan. Hệ thống đảm bảo chất lượng quốc gia vẫn đang phát triển và các cơ chế đảm bảo chất lượng hiện tại chỉ được áp dụng một phần hoặc đã gặp phải những điểm nghẽn trong quá trình triển khai. 

 

Liên quan đến quyền tự trị đại học và trách nhiệm giải trình, những cải cách được thực hiện gần đây thể hiện một bước rõ ràng là đúng hướng, nhưng kết quả còn lẫn lộn do có những khoảng cách đáng kể giữa ý định chính sách và việc thực hiện trên thực tế [4]. Đến nay, mới có 23/171 trường đại học công lập thực hiện thí điểm đổi mới về quyền tự trị. So với các nước, việc thực hiện quyền tự trị đại học còn hạn chế về phạm vi và chưa mang lại kết quả có ý nghĩa. 

 

Cần có hướng dẫn để làm rõ các định nghĩa khác nhau về tự chủ trong Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018 [4]. Trong luật, tự chủ tài chính chỉ phần lớn bàn về huy động các nguồn lực tư. Về tự chủ tổ chức, một hạn chế là hiệu trưởng các trường đại học vẫn do Bộ Giáo dục và đào tạo bổ nhiệm nên không phải lúc nào những người nầy cũng có đủ các tiêu chí chuyên môn về học thuật và năng lực lãnh đạo để bảo đảm sự thành công trong việc quản trị và lãnh đạo các trường. 

 

Mặc dù mức độ tự chủ cao hơn được trao cho các trường đại học quốc gia ở Hà Nội và Sài Gòn, cấu hình của các trường này với tư cách là các trường đại học bảo trợ không cho phép các trường này tận dụng tối đa tài năng, kiến ​​thức và năng lực hiện có phân tán trong một số lượng lớn các thành viên riêng biệt khi các tổ chức nầy không chia sẻ hữu hiệu các nguồn tài chính và nguồn lực khoa học của họ.

 

Việt Nam là một nước với một trong những mức chi tiêu công thấp nhất tính theo tổng sản phẩm quốc nội và là một trong những nước với mức chi tiêu đại học phụ thuộc vào học phí cao nhất [4]. So với các nước khác, Việt Nam rõ ràng là một ngoại lệ. Việt Nam chi 0,33% tổng sản phẩm quốc nội cho đại học, so với 0,57% Nam Dương, 0,64% Thái, 0,87% Trung Quốc, 1% Hàn Quốc, 1% Singapore, 1,13% Mã Lai, 1,22% Ba Lan, 1,25% Pháp, 1,29% Anh, 1,54% Úc, 1,63% Hòa Lan và 1,89% Phần Lan [4].

 

Hơn nữa, chính phủ phân bổ các nguồn ngân phí thường xuyên cho các trường đại học thông qua các khoản tài trợ theo khối dựa trên các chuẩn mực lịch sử, không liên quan trực tiếp đến số lượng học sinh thực tế hoặc bất kỳ thành tích hoạt động và hiệu quả nào khác [4].

 

Tổ chức học bổng hiện tại và các khoản vay cho sinh viên dựa trên nhu cầu có phạm vi bảo hiểm thấp, số tiền thấp và, trong trường hợp của các khoản vay, các điều khoản trả nợ không hấp dẫn. Việt Nam không có chương trình học bổng toàn quốc cho các nghiên cứu giáo dục đại học [4].

 

Bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới kêu gọi những thay đổi sâu rộng về giáo dục đại học. Đầu tiên, một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất đối với việc phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong tương lai là xây dựng một tầm nhìn vượt trội về quy mô, hình dạng và cấu hình thể chế của hệ thống vào năm 2030 [4]. 

 

Chính sách Giáo dục Đại học giai đoạn 2021–2030 mà Bộ Giáo dục và đào tạo đang xây dựng nên tạo thành một kế hoạch tổng thể có liên quan cho tầm nhìn đó, bao gồm (a) nêu rõ chiến lược mở rộng dài hạn để cải thiện khả năng tiếp cận và công bằng, (b) đặt ra các mục tiêu cụ thể trong các điều khoản cải thiện chất lượng và nâng cao mức độ phù hợp của chương trình, (c) xây dựng chiến lược tăng cường nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, (d) phác thảo các cải cách tạo điều kiện để hiện đại hóa quản trị ở cấp trường và quốc gia, và (e) thiết kế một chiến lược tài chính bền vững [4].

 

Việt Nam có thể tăng cường đáng kể khả năng tiếp cận và công bằng giáo dục đại học bằng cách tăng cường sự khác biệt giữa các trường, tăng cường hỗ trợ tài chính cho học sinh và có một hệ thống học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở lớn hơn và được chuẩn bị tốt hơn để học lên cao [4].

 

Những đổi mới trong thực hành dạy và học, liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp mạnh mẽ hơn, quản lý tài năng của đội ngũ giảng viên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng giáo dục và công nghệ thông tin, cũng như các quy trình bảo đảm chất lượng mạnh mẽ và toàn diện hơn sẽ là chìa khóa để nâng cao chất lượng và sự phù hợp của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam [4].

 

Chiến lược nghiên cứu giáo dục đại học và chuyển giao công nghệ nên bao gồm các chính sách và chương trình để tăng cường tài trợ nghiên cứu, tài năng, cơ sở hạ tầng và liên kết với ngành công nghiệp và những biên giới về nghiên cứu và phát triển với các nước và toàn cầu [4].

 

Ở cấp độ hệ thống, chính phủ cần tăng cường vai trò quản lý. Ở cấp đại học, chính phủ cần cung cấp các điều kiện thuận lợi—năng lực, nguồn lực và khung pháp lý—để cho phép các trường đại học hoạt động như các tổ chức tự trị nhưng hoàn toàn chịu trách nhiệm giải trình với những các bên liên quan, bao gồm tầng lớp giáo sư, sinh viên và chính phủ [4].

 

Việt Nam nên huy động mức tài trợ công và tư cao hơn đáng kể để hỗ trợ đại học. Đồng thời, việc phân bổ ngân sách công nên hướng tới cách tiếp cận dựa trên kết quả hoạt động và nghiên cứu [4].

 

Về cơ chế phân bổ nguồn lực, Việt Nam sẽ có lợi nếu áp dụng các nguyên tắc sau phản ánh các thông lệ tốt của quốc tế : (a) mối liên hệ rõ ràng với hiệu quả hoạt động cũng như tính công bằng, (b) tính khách quan và minh bạch trong quy trình và tiêu chí phân bổ, (c) ổn định tài chính theo thời gian và (d) phân bổ dưới dạng trợ cấp khối dựa trên hiệu suất. Cũng cần thành lập một cơ quan tài trợ duy nhất để quản lý việc phân bổ các nguồn lực công cho các trường đại học [4].

 

Có bao giờ ông Trọng tạm nghĩ về tóm thâu quyền lực để nghĩ về hậu quả lâu dài của việc bỏ bê và kềm hãm sự phát triển của hàng hàng thế hệ thanh niên với cơ chế đại học èo uột trong 12 năm qua ? Đất nước nầy có tiềm năng rất lớn về sáng tạo mà ông Trọng chỉ nghĩ được một chuyện duy nhất là gởi thanh niên đi lao động ở nước ngoài trong 30 năm qua [5]. Đây là thứ lãnh đạo gì ? Ngu !

 

Phạm Đình Bá

Nguồn : VNTB, 21/01/2023

 

 

Tham khảo :

1. Tiến sĩ Trần Đức Cảnh, "Giáo dục Việt Nam : đây là thời điểm phù hợp để xây dựng trường phi lợi nhuận ở Việt Nam", 28/12/2022 

2. Baradei, L.E., Public, Private and Nonprofit Universities and Everything in Between", 2020.

3. U.S. Library of Congress, "Education policy". 

4. Parajuli, D., et al., "Improving the performance of higher education in Vietnam : Strategic priorities and policy options", 2020.

5. Tuấn, T.M., "Quản lý Xuất khẩu lao động ở một số nước và thực tiễn Việt Nam", Tạp chí phát triển kinh tế, 2019, p. 52-60.

 

 

 



No comments: