2022
: Năm bội thu cho xuất khẩu gạo Việt Nam
Thu Hằng - RFI
Đăng ngày: 16/01/2023 - 14:46
Việt Nam, nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới
sau Thái Lan và Ấn Độ, đạt kỷ lục về xuất khẩu gạo trong năm 2022 : gần
7,2 triệu tấn, thu về khoảng 3,49 tỉ đô la nhờ được mùa và giá gạo tăng trên thế
giới. Tháng 10/2022 là tháng kỷ lục trong lịch sử ngành gạo Việt Nam, đạt
713.546 tấn, trị giá hơn 341 triệu đô la, tăng 22,3% về lượng và tăng 23,9% về
giá trị so với tháng 09 trước đó.
.
Đông Nam Á, thị trường lớn nhất của Việt Nam
Đông Nam Á vẫn là thị trường lớn của Việt Nam, trong đó bốn nhà nhập khẩu
quan trọng là Philippines, Malaysia, Singapore và Indonesia. Philippines là
khách hàng lớn nhất, chiếm 44,9% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Indonesia, thị trường lớn thứ tư của Việt Nam, đang được các nhà xuất khẩu gạo
cố nhắm đến sau khi chính quyền Jakarta thông báo nhập 500.000 tấn gạo cho kho
dự trữ, sau ba năm không phải mua gạo nước ngoài.
Năm 2022 cũng đánh dấu « bội thu » cho doanh
thu xuất khẩu gạo vì giá gạo trên thế giới tăng. Xu hướng này, cũng như nhu cầu
nhập khẩu của nhiều nước, sẽ còn tăng trong thời gian tới, trong bối cảnh Ấn Độ
đang cấm xuất khẩu gạo 100% và đánh thuế gạo trắng 20% để bảo đảm an ninh lương
thực trong nước,
Giới chuyên gia nhận định đây là một cơ hội cho ngành xuất khẩu gạo Việt
Nam trong những tháng cuối năm, nâng tổng lượng xuất khẩu lên mức kỷ lục, được
thẩm định là trên 7 triệu tấn. Trả lời RFI Tiếng Việt, tiến sĩ Dương Văn Ni, chủ
tịch kiêm giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong (Mekong Conservancy Foundation, MCF), giải thích về
thành công này :
« Con
số Việt Nam xuất khẩu được khoảng 7 triệu tấn gạo trong năm 2022 có thể được giải
thích qua mấy lý do. Lý do thứ nhất, năm nay, mực nước từ đầu nguồn về không
nhiều, cho nên đe dọa về lũ lụt không lớn. Lý do thứ hai là sau 2, 3 năm nay,
năm vừa rồi đặc biệt có thể được coi là năm mưa thuận gió hòa, không có bão tố
lớn, nên khu lúa trổ bông đã không bị lép nên được mùa. Lý do thứ ba là sau dịch
Covid, có rất nhiều người, đặc biệt là những người rời quê đi làm ăn xa ở những
khu công nghiệp như Bình Dương, Sông Bé, thành phố Hồ Chí Minh, bị thất nghiệp,
nói đúng hơn là không có việc làm, nên họ ở nhà. Nhờ đó mà có được nguồn lao động
trực tiếp trên đồng ruộng đầy đủ. Với ba lý do đó, cộng thêm giá cả nên đã đẩy
năng suất lúa cao hơn mọi năm ».
.
Gạo Việt Nam chinh phục những thị trường khó tính
Ngoài khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc là khách hàng gạo lớn thứ hai của
Việt Nam, chiếm 12% tổng lượng xuất khẩu và Bờ Biển Ngà, đứng thứ ba chiếm 9%.
Nhờ vào nhiều hiệp định thương mại được Hà Nội ký kết, gạo của Việt Nam thâm nhập
vào nhiều thị trường mới. Ví dụ các thị trường trong khuôn khổ Hiệp định Đối
tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) tăng lần lượt là 17% và 31,5% về lượng trong 11
tháng đầu năm 2022.
Tiếp theo, nhờ Hiệp định tự do Thương mại EVFTA mà lần đầu tiên, gạo “made
in Vietnam” mang thương hiệu riêng được xuất sang châu Âu vào năm
2022. Thị trường nổi tiếng khó tính này vẫn còn rất nhiều tiềm năng cho Việt
Nam vì Bruxelles cấp cho Việt Nam hạn ngạch xuất khẩu 80.000 tấn gạo mỗi năm với
mức thuế 0% (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000
tấn gạo thơm). Ngoài ra, Liên Âu cũng tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm nên
hàng năm, Việt Nam có thể xuất khẩu khoảng 100.000 tấn vào khối 27 nước.
Trong năm 2022, người tiêu dùng châu Âu bắt đầu biết đến một số loại gạo
mới, thơm ngon, chất lượng cao của Việt Nam. Ví dụ gạo ST24, ST25, Com Vietnam
Rice được bán tại nhiều siêu thị của cộng đồng người Việt, cũng như ở một số
siêu thị lớn như Leclerc, Carrefour. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang tìm cách
phát triển thị phần loại gạo chất lượng cao này ở châu Âu, không chỉ đầu tư vào
mạng lưới kho bãi, nhà máy hiện đại, mà còn hợp tác với nhiều địa phương để
phát triển những vùng trồng lúa chất lượng cao, chuyên xuất khẩu sang thị trường
châu Âu và Mỹ. Tiến sĩ Dương Văn Ni giải thích tiếp về thành công về chất
lượng gạo :
« Thứ
nhất là định hướng từ nghị quyết 120 của Chính phủ định hướng chuyển nền nông
nghiệp từ chỉ tiêu sản nhiều về số lượng thành nền nông nghiệp tập trung vào chất
lượng. Đây là một định hướng rất lớn. Riêng trong bộ Nông Nghiệp cũng đang xoáy
mạnh vào hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, chứ không phải sản lượng nữa.
Cho
nên, không chỉ có một giống lúa ST24, ST25, mà hiện nay nhiều vùng, nhiều nơi
đang tập trung tuyển chọn, đánh giá lại chất lượng của hạt gạo. Hai giống ST24,
ST25 của kỹ sư nông nghiệp Hồ Quang Cua phù hợp cho những vùng duyên hải, bị ảnh
hưởng một chút nước mặn. Hai giống đó có chất lượng rất thơm, ngon. Nhưng riêng
với những vùng nằm sâu bên trong, người ta cũng đang tuyển lựa những giống
khác, có đặc tính thơm ngon không thua kém gì ST24, ST25.
Tôi thấy
rằng chuyển dịch của Nhà nước, hay đúng hơn là định hướng của bộ Nông Nghiệp từ
sản xuất nhiều gạo chuyển qua sản xuất gạo có chất lượng ngon nhất, đang có
chuyển biến rất tích cực. Tôi tin chắc rằng trong thời gian ngắn, một vài năm tới,
những loại gạo ngon của Việt Nam có thể xuất hiện tương đối phổ biến trên thị
trường thế giới hơn ».
.
Định hướng mở rộng thị trường thế giới
Hiện tại, đồng bằng sông Cửu Long dành 1 triệu hecta để trồng lúa
chuyên canh chất lượng cao, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Đây là đề
án sản xuất bền vững, nằm trong Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn bền
vững 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Lượng gạo thơm xuất sang Liên Hiệp Châu
Âu được hưởng hạn ngạch ưu đãi về thuế quan là 30.000 tấn, tương đương với 1,2%
lượng gạo thơm sản xuất trong vùng, cho nên, theo báo Thương gia ngày 09/09, tiềm
năng xuất khẩu gạo thơm còn rất lớn.
Để đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Liên Hiệp Châu Âu, ngành lúa
gạo Việt Nam đang đi theo hướng sạch, bền vững. Trong nghiên cứu công bố tháng
08/2022 về ngành lúa gạo Việt Nam 2022-2031, hãng nghiên cứu thị trường
Research and Markets của Mỹ đánh giá hiệp định tự do thương mại với Liên Âu, có
hiệu lực từ ngày 01/08/2020, đã giúp xuất khẩu gạo Việt Nam nhanh chóng khởi sắc,
tăng cả về lượng và về giá.
Cụ thể, « nhờ ưu đãi về thuế, gạo Việt Nam được xuất sang
thị trường châu Âu nhiều hơn. Trước khi EVFTA có hiệu lực, giá gạo ST20 và gạo Jasmine
xuất sang Liên Hiệp Châu Âu lần lượt là 800 đô la và 520 đô la/tấn, trong khi
hiện nay giá lần lượt trên 1.000 đô la và 600 đô la. Theo phân tích của chuyên
gia, có ba nguyên nhân giúp giá gạo Việt Nam tăng.
Thứ nhất,
chính phủ đã ban hành đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, theo đó điều chỉnh mạnh
cơ cấu lúa gạo, thay đổi trình độ canh tác lúa, tức là chú trọng nâng cao chất
lượng gạo hơn là tăng sản lượng. Năm 2015, giống lúa chất lượng của Việt Nam chỉ
chiếm 35% - 40% tổng lượng giống, trong khi năm 2020, con số này đạt 75% - 80%,
thậm chí có nơi tỷ lệ sử dụng giống lúa chất lượng cao tới 90%.
Thứ
hai, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định tự do thương mại (EVFTA, RCEP, CPTTP) tạo
điều kiện cho xuất khẩu gạo của Việt Nam bứt phá. Thứ ba, nhiều ngành hàng
bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trong năm 2020 nhưng nhu cầu thị trường về thực
phẩm không giảm. Các nhà phân tích báo cáo rằng xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ
tiếp tục tăng cả về lượng và giá trị trong giai đoạn 2022-2031 ».
Theo đuổi chiến lược tăng giá trị gạo là ưu tiên của Việt Nam trong thời
gian tới để duy trì lợi thế về chất của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới,
theo phát biểu của ông Trần Thanh Hải, phó cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, bộ
Công Thương. Và để thực hiện mục tiêu này, thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu
bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn lập dự án sản xuất gạo chất lượng cao ở
đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp, Long An, An Giang, Kiên
Giang và Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 50% sản lượng gạo và chiếm đến
95% khối lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Ngoài ra, chính phủ Việt Nam cũng đẩy mạnh hợp tác với các nhà nghiên cứu
nước ngoài. Theo báo Vietnam Plus ngày 25/11, nhân chuyến công du Philippines của
chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ, bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Lê Minh Hoan đã thăm Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) ở Los Banos,
Philippines. Hiện Viện IRRI chủ trì 8 chương trình nghiên cứu chính của Viện
Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế One CGIAR với Việt Nam. Kế hoạch khung hợp tác
cho giai đoạn 2023-2025 tầm nhìn đến 2030 được hai bên thống nhất ký vào năm
2023.
--------------------------------
CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN
Quy
hoạch Đồng bằng sông Cửu Long bền vững, giảm nghèo
Doanh
nghiệp Việt tìm cách mở rộng xuất khẩu nông phẩm sang Pháp
No comments:
Post a Comment