Trung Quốc
và Triều Tiên đã phá vỡ kế hoạch chiến tranh của Mỹ
Raphael S. Cohen | Foreign Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
Việc
các cường quốc châu Á can thiệp vào châu Âu đã vô hiệu hóa nhiều thập kỷ hoạch
định chiến lược của Mỹ.
Tháng
11 vừa qua, hai thời khắc quan trọng đã thay đổi cục diện địa chính trị toàn cầu.
Lần đầu tiên, quân đội Triều Tiên xuất hiện trên chiến trường trong cuộc chiến
Nga-Ukraine. Ngay sau đó, quân đội Đan Mạch đã bắt giữ một tàu chở hàng treo cờ
Trung Quốc, Yi Peng 3, vì nghi ngờ tàu này đã cố tình cắt hai cáp dữ liệu dưới
đáy Biển Baltic.
Hai
sự cố này đánh dấu một thay đổi cơ bản trong môi trường chiến lược. Lần đầu
tiên, các đối thủ của Mỹ sẵn sàng hỗ trợ quân sự trực tiếp cho nhau, ngay cả ở
bên kia bán cầu.
VIDEO
:
Trung Quốc
và Triều Tiên đã phá vỡ kế hoạch chiến tranh của Mỹ
https://www.youtube.com/watch?v=A1RMC2yhCLg
Dù
bạn gọi đó là “trục xâm lược,” “liên minh bất chính,” “trục ma quỷ” mới, hoặc bất
kỳ tên gọi nào khác – thì thực tế không thể phủ nhận là quan hệ quân sự giữa
Trung Quốc, Nga, Iran, và Triều Tiên đang ngày càng sâu sắc. Và diễn biến
này sẽ đảo lộn cách Mỹ cùng các đồng minh trên khắp thế giới suy nghĩ và cung cấp
cho an ninh quốc gia của họ.
Việc
Triều Tiên triển khai quân đội và việc tàu chở hàng Trung Quốc bị nghi ngờ cắt
cáp không phải tự nhiên mà có. Suốt nhiều năm nay, hàng triệu quả đạn pháo
của Triều Tiên và hàng nghìn máy bay không người lái của Iran đã xuất hiện trên
chiến trường ở Ukraine, trong khi viện trợ kinh tế từ Trung Quốc cũng hỗ trợ nỗ
lực chiến tranh của Nga. Trung Quốc và Nga còn tuyên bố tình hữu nghị
“không giới hạn” của họ vào tháng 2/2022, chỉ vài ngày trước khi Nga phát động
cuộc xâm lược Ukraine.
Gần
đây hơn, Nga và Triều Tiên đã ký một hiệp ước phòng thủ chung, cam kết hỗ trợ lẫn
nhau trong chiến tranh, trong khi Nga và Iran đang đàm phán về một hiệp ước
toàn diện mà Ngoại trưởng Nga đã nói sẽ bao gồm yếu tố quốc phòng. Nhưng
các hiệp ước và lời hứa là một chuyện; sự tham gia trực tiếp vào hai cuộc chiến
đang diễn ra ở châu Âu – một cuộc chiến nóng và một cuộc chiến hỗn hợp (hybrid)
– lại là một chuyện hoàn toàn khác. Trung Quốc và Triều Tiên hiện đã vượt
qua điểm không thể quay đầu.
Để
hiểu rõ hơn lý do tại sao những sự kiện này lại làm thay đổi mọi thứ đối với Mỹ,
người ta phải đi sâu vào thế giới phức tạp của chiến lược quốc phòng và hoạch định
lực lượng của nước này.
Kể
từ khi tham gia Thế chiến II, Mỹ đã mở rộng quân đội để có thể chiến đấu hai cuộc
chiến cùng một lúc – một ở Thái Bình Dương chống lại Đế quốc Nhật Bản, và một ở
châu Âu chống lại Đức Quốc xã. Cấu trúc lực lượng đó đã tồn tại – ít nhiều –
trong phần lớn thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi người Mỹ bận rộn với việc đánh bại
chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu.
Sau
Chiến tranh Lạnh, quân đội Mỹ vẫn duy trì cấu trúc lực lượng hai cuộc chiến – lấy
lý do để phòng ngừa khả năng xảy ra chiến tranh đồng thời với Iraq và Triều
Tiên – chí ít trên lý thuyết. Nhưng liệu Mỹ có thể tiến hành hai cuộc chiến
toàn diện trong thực tế hay không vẫn là một câu hỏi bị bỏ ngỏ.
Giai
đoạn chiến đấu ban đầu chưa bao giờ là thách thức chính; người Mỹ có đủ lực lượng
để chiến đấu trên cả hai mặt trận. Nhưng duy trì lực lượng cho các cuộc
chiến kéo dài mới là điều cực kỳ khó khăn. Gánh nặng của việc duy trì hai cuộc
chiến đồng thời ở Iraq và Afghanistan đã dàn trải lực lượng mặt đất của Mỹ đến
cùng cực, bất chấp thực tế rằng chúng chỉ là những cuộc chiến chống nổi loạn
tương đối hạn chế, thay vì kiểu xung đột truyền thống thường dữ dội hơn mà
chúng ta đang chứng kiến lại ở Ukraine.
Nhưng
khi sức mạnh quân sự của Trung Quốc ngày càng trở nên đáng gờm, và Mỹ nỗ lực
cắt giảm thâm hụt hiện đại hóa quân sự còn sót lại từ cái gọi là cuộc chiến chống
khủng bố toàn cầu, thì cấu trúc lực lượng hai cuộc chiến dần trở nên không
thể duy trì. Các nhà hoạch định quốc phòng nhận ra rằng quân đội Mỹ sẽ phải
chịu áp lực rất lớn nếu tiến hành chỉ một cuộc chiến chống lại một cường quốc,
chứ chưa nói đến hai cuộc chiến cùng một lúc.
Vì
vậy, Washington đã hạ thấp tiêu chuẩn. Hướng dẫn Chiến lược Quốc phòng năm
2011 của chính quyền Obama – một tài liệu chính sách đóng vai trò là cơ sở
cho hoạch định quân sự tổng thể – kêu gọi “đánh bại sự xâm lược của bất kỳ kẻ
thù tiềm tàng nào” trong khi áp đặt “cái giá không thể chấp nhận được” lên kẻ
thù khác – được gọi là chiến lược một cuộc chiến rưỡi. Chính quyền
Trump đầu tiên và sau đó là chính quyền Biden đã tiến thêm một bước và xóa luôn
phần “rưỡi”: Các chiến lược quốc phòng năm 2018 và 2022 chỉ đạo quân đội Mỹ
lập kế hoạch chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc chiến, tại một chiến
trường, tại một thời điểm nhất định, đồng thời ngăn chặn các kẻ thù khác mà
không để xảy ra giao tranh lớn. Kế hoạch là giữ cho cuộc xung đột bị cô lập và
cục bộ.
Điều
này đưa chúng ta quay trở lại với lý do tại sao việc triển khai quân sự của Triều
Tiên và việc cắt cáp của Trung Quốc lại quan trọng đến vậy. Đầu tiên, cả
hai hành động chỉ ra rằng một cuộc xung đột với một đối thủ ở một nơi trên thế
giới sẽ không nhất thiết chỉ giới hạn ở một đối thủ và một khu vực. Thứ hai, những
sự kiện này làm nổi bật khả năng hạn chế của Mỹ – nếu không muốn nói là thiếu
khả năng – trong việc ngăn chặn một đối thủ tham gia cuộc chiến của một đối thủ
khác cách xa tận nửa vòng trái đất.
Nói
một cách đơn giản, khi các đối thủ của Mỹ xích lại gần nhau hơn, khả năng một
cuộc xung đột ở một khu vực nhất định lan sang những nơi khác sẽ tăng lên đáng
kể. Và điều đó có nghĩa là các giả định làm nền tảng hoạch định các chiến lược
quốc phòng quốc gia gần đây nhất đã trở nên lỗi thời, nếu không muốn nói là sai
hoàn toàn.
Các
chính quyền trước đây đã cố gắng ngăn chặn việc hình thành môi trường chiến lược
ngày càng bấp bênh này bằng cách cố gắng phá vỡ liên minh giữa các đối thủ. Chính
quyền Obama và Biden đã đưa ra nhiều lời đề nghị với Iran, trong khi chính quyền
Trump đầu tiên cố gắng xích lại gần hơn với Triều Tiên. Và cả ba chính quyền đều
đã thử đủ mọi cách để tái thiết quan hệ và đưa ra nhiều đề nghị khác nhau với
Nga.
Không
có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những nỗ lực này đều thất bại, vì lý do đơn giản
là mỗi đối thủ đều không hài lòng với hiện trạng và có những lợi ích cơ bản
xung đột với Mỹ.
Ngay
cả khi chính quyền Trump thành công trong việc ngăn chặn các cuộc chiến ở
Ukraine và Trung Đông, thì trục đang phát triển giữa Trung Quốc, Nga, Iran
và Triều Tiên vẫn sẽ tồn tại, vì lý do đơn giản là việc duy trì nó nằm trong lợi
ích chiến lược của cả bốn quốc gia này.
Đối
với Trung Quốc, trục này có nghĩa là nguồn nguyên liệu thô mới, công nghệ quân
sự, và nhiều khả năng là công cụ tương lai để đánh lạc hướng Mỹ về mặt địa
chính trị. Đối với Nga, trục này cung cấp một cứu cánh kinh tế (từ Trung Quốc)
và thiết bị quân sự (từ Triều Tiên và Iran). Đổi lại, Iran và Triều Tiên sẽ nhận
được công nghệ quân sự và sự hậu thuẫn của một cường quốc.
Không
một lý do nào trong số này có thể biến mất – ngay cả khi chính quyền Trump đạt
được một thỏa thuận ngừng bắn nào đó.
Một
cách khác mà các chính quyền Mỹ đã dùng để cố gắng giải quyết khác biệt giữa
các mối đe dọa và nguồn lực quân sự là ngó lơ một số khu vực trên thế giới. Đáng
chú ý nhất là các chính quyền Obama, Trump, và Biden đều muốn giảm bớt cam kết
quân sự của Mỹ đối với Trung Đông. Nhưng cuối cùng, họ đều thấy mình bị kéo trở
lại khu vực này theo những cách mạnh mẽ – để ngăn chặn Nhà nước Hồi giáo; đẩy
lùi các lực lượng ủy nhiệm của Iran; hoặc gần đây nhất là bảo vệ Israel và ngăn
chặn một cuộc chiến khu vực lan rộng.
Đây
là điều mà một số người có thể gọi là sở thích được công khai: Dù các chính quyền
Mỹ liên tiếp đều nhắc đến ý tưởng rằng Trung Đông chỉ là phần ngoại vi so với
các lợi ích chiến lược cốt lõi của Mỹ, nhưng Washington vẫn nhiều lần chứng
minh rằng họ thực sự quan tâm đến khu vực này, đủ để mạo hiểm cả xương máu và
tiền bạc ở đó.
Điều
tương tự có thể đúng hơn với châu Âu, nơi Mỹ về cơ bản có sự gắn bó chặt chẽ.
Ngay cả khi bỏ qua các quan hệ văn hóa và lịch sử, thương mại giữa Mỹ và Liên
minh châu Âu chiếm gần 30% tổng thương mại hàng hóa và dịch vụ toàn cầu và 43%
GDP toàn cầu.
Vì
vậy, ngay cả khi một số người ở Washington muốn rời xa an ninh châu Âu và tập
trung hoàn toàn vào Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, thì Mỹ sẽ thấy rằng việc nói
lý thuyết dễ hơn nhiều so với việc thực hiện sự thay đổi đó trong thực tế.
Nếu
Mỹ không thể phá vỡ trục đối thủ hoặc ngó lơ các khía cạnh của nó, thì cần phải
lập kế hoạch cho một môi trường chiến lược thay đổi. Điều này bao gồm khả
năng rất thực tế là Mỹ sẽ phải chiến đấu với nhiều hơn một đối thủ ở nhiều hơn
một chiến trường cùng một lúc.
Đó
là lý do tại sao Ủy ban Chiến lược Quốc phòng Quốc gia – một nhóm chuyên gia lưỡng
đảng có nhiệm vụ xem xét các chiến lược quốc phòng quốc gia – đã kêu gọi Mỹ xây
dựng cấu trúc lực lượng ba chiến trường trong báo cáo gần đây nhất của họ,
thừa nhận thực tế rằng Mỹ phải đối mặt với những thách thức đồng thời ở Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương, Châu Âu, và Trung Đông, và do đó phải cùng với các đồng
minh và đối tác chuẩn bị bảo vệ các lợi ích toàn cầu của mình ở cả ba khu vực.
Tất
nhiên, đối đầu với sức mạnh kết hợp của Trung Quốc, Nga, Iran, và Triều Tiên là
một nhiệm vụ khổng lồ. Nó sẽ đòi hỏi một quân đội lớn hơn và chi tiêu quốc
phòng nhiều hơn đáng kể, và sẽ rất khó để thuyết phục về mặt chính trị. Nhưng
nước Mỹ ngày nay chỉ mới chi khoảng một nửa số tiền cho quốc phòng so với GDP
như trong thời Chiến tranh Lạnh.
Vì
vậy, nếu các nhà lãnh đạo Mỹ thực sự tin vào những gì họ nói trong các tài liệu
chiến lược của mình – rằng đây là giai đoạn nguy hiểm nhất kể từ Chiến tranh Lạnh
và có lẽ thậm chí là kể từ Thế chiến II – thì việc Mỹ cần phải nỗ lực tương tự
như những lần trước đó là điều hợp lý.
Ngay
cả khi chi tiêu tăng lên, Mỹ vẫn không thể tự mình hành động. Dù họ có thể rao
giảng rằng “Nước Mỹ trên hết,” nhưng việc đảm bảo an ninh và thịnh vượng cho Mỹ
sẽ rẻ hơn và hiệu quả hơn nhiều nếu Washington biết tận dụng sức mạnh kết hợp của
mạng lưới đồng minh và đối tác toàn cầu của mình.
Tất
nhiên, điều đó dựa trên ý tưởng rằng các đồng minh và đối tác là những người
đóng góp ròng – chứ không chỉ là người thụ hưởng ròng – đối với an ninh toàn cầu. Trong
lúc Mỹ tăng cường đầu tư quốc phòng, các đồng minh của họ trên toàn thế giới
cũng phải tăng đầu tư.
Tháng
1 tới, chúng ta sẽ có một chính quyền mới, một chiến lược mới, và một cơ hội tiềm
năng để đánh giá lại các giả định chiến lược của Mỹ. Điều đó nên bắt đầu bằng
việc thừa nhận rằng Washington thực sự quan tâm đến nhiều khu vực trên thế giới
và rằng các mối đe dọa do trục đối thủ gây ra – hay bất kỳ tên gọi nào bạn chọn
để mô tả liên minh đó – sẽ tiếp tục tồn tại. Đã đến lúc phải lập ra kế hoạch
phù hợp.
---------
Raphael
S. Cohen là Giám đốc Chương trình Chiến lược và Học thuyết tại Dự án Không lực
của Tập đoàn Rand.
Nguồn: Raphael S. Cohen,
“China and North Korea Throw U.S. War Plans out the Window,” Foreign
Policy, 02/12/2024
No comments:
Post a Comment