Friday, November 10, 2023

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ TỪ 1615 ĐẾN 1861 : QUÁ TRÌNH LA-TINH-HÓA TIẾNG VIỆT TRONG TRÀO LƯU NGỮ HỌC TRUYỀN GIÁO (Phạm Thị Kiều Ly / Tia Sáng)

 



Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo

Phạm Thị Kiều Ly

27 12 2019

https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/lich-su-chu-quoc-ngu-tu-1615-den-1861-qua-trinh-latinh-hoa-tieng-viet-trong-trao-luu-ngu-hoc-truyen-giao-20834/

 

Lời tòa soạn: Vừa qua, đề xuất lấy tên Alexandre de Rhodes đặt cho một con đường ở Đà Nẵng đã gây ra cuộc tranh cãi dữ dội xung quanh vai trò, đóng góp của chữ Quốc ngữ với sự phát triển văn hóa dân tộc: chữ Quốc ngữ là thành tựu văn minh hay là “công cụ xâm lăng”? Và cuộc tranh luận ngày càng đa chiều, mở rộng, ban đầu từ vấn đề chữ Quốc ngữ, giờ đây còn sang cả chữ Nôm, chữ Hán, cũng như lịch sử ra đời, vai trò của các loại chữ viết này trong lịch sử Việt Nam. Những tranh cãi gay gắt này dường như không có lời kết. Để đưa ra căn cứ có hệ thống, đa chiều, góp phần luận giải vấn đề này, ngày 6/12 Tia Sáng đã tổ chức cuộc tọa đàm giữa TS Hán Nôm Trần Trọng Dương và TS Ngôn ngữ học Phạm Thị Kiều Ly với chủ đề "Từ chữ Nôm tới chữ Quốc ngữ". Tia Sáng xin giới thiệu bài viết của TS Phạm Thị Kiều Ly về quá trình các nhà truyền giáo nghiên cứu và hoàn thiện cách ghi âm tiếng Việt bằng con chữ La – tinh, một nội dung chị đã trình bày tại tọa đàm.

 

https://tiasang.com.vn/wp-content/uploads/old/Portals/0/lich%20su%20chu%20Quoc%20ngu%20a1.jpg

Bồ Đào Nha được quyền bảo trợ phía Đông. Trong ảnh: Thuyền của Vasco da Gama rời bến đi Ấn Độ vào năm 1497. Nguồn ảnh: The Diplomat.

 

Người Việt Nam sử dụng chữ La-tinh là hiện tượng đơn lẻ trong số các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa và chính trị Khổng giáo. Tuy nhiên việc ghi âm tiếng bằng con chữ La-tinh lại không phải là một hiện tượng đơn lẻ, công cuộc này được thực hiện ở tất cả các nước có dấu chân của các Thừa sai đến truyền giáo kể từ Phục Hưng (châu Mỹ, Á, Phi). Các Thừa sai đều dùng ngữ pháp La-tinh như một mô hình để miêu tả các ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới và ghi âm các ngôn ngữ đó bằng chữ alphabet để dễ bề học tiếng.

 

Việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ alphabet được bắt đầu khi các Thừa sai Dòng Tên tới Đàng Trong từ năm 1615, rồi tiếp theo là Đàng Ngoài từ 1626. Vì nhu cầu giao tiếp với người dân bản xứ, các Thừa sai học tiếng Việt và miêu tả ngôn ngữ này theo mô hình ngữ pháp La-tinh, đồng thời ghi âm tiếng Việt theo con chữ La-tinh (mà chúng ta gọi ngày nay là chữ Quốc ngữ). Trong kỳ 1 của bài viết này, tôi tập trung trình bày lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861 (tức là mới chỉ được sử dụng trong khuôn khổ của Giáo hội), tôi gọi đây là chữ tiền Quốc ngữ.

 

Sau hiệp ước Tordesillas (1498) giữa hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha do giáo hoàng dàn xếp, Tây Ban Nha được quyền thám hiểm ở phía Tây (chủ yếu là châu Mỹ) và Bồ Đào Nha được quyền bảo trợ phía Đông. Bởi vậy, Việt Nam nằm trong vùng truyền giáo do vua Bồ Đào Nha bảo trợ. Những chiếc thuyền đầu tiên của người Bồ tới vùng đất Đàng Trong của Việt Nam năm 1523 theo ghi nhận của sử liệu (Manguin 1972 : 47). Nhưng mãi đến năm 1612, khi Nhật Bản cấm đạo và các thừa sai Dòng Tên bị trục xuất về Macao trong lúc chờ nhiệm vụ mới, theo khuyến nghị của nhà buôn Fernandes da Costa, ba thừa sai Dòng Tên1 được cử tới Đàng Trong, họ cập bến Cửa Hàn ngày 18 tháng 01 năm 1615. Thời kỳ đầu, các thừa sai được giáo dân Nhật Bản2 giúp đỡ và làm thông ngôn với người Việt.

 

Lược sử quá trình ghi tiếng Việt bằng ký tự La-tinh từ 1615 đến 1651

 

Giai đoạn đầu từ 1615 đến 1630

Giáo sĩ Francisco de Pina (1585-1625) tới Đàng Trong năm 1617. Tư liệu từ bản cáo cáo của João Roiz cho chúng ta biết, năm 1619, Pina đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt. Sau đó Gaspar do Amaral cũng làm một cuốn từ vựng năm 1634, nhưng các bản thảo viết tay này đều đã bị mất. Để phục dựng lại quá trình các giáo sĩ lựa chọn các con chữ để ghi tiếng Việt, tôi đã dựa vào các văn bản viết tay bằng chữ Bồ Đào Nha, La-tinh hiện được lưu trữ tại Lisbonne và Rome có điểm xuyết những âm tiếng Việt được ghi lại bằng con chữ Latinh. Tôi tập trung giải thích logic của việc lựa chọn con chữ của các Thừa sai cũng như tìm hiểu những cuộc gặp gỡ, những biến cố lịch sử dẫn tới sự thay đổi cách viết chữ tiền Quốc ngữ. Con chữ ghi âm tiếng Việt đầu tiên được ghi nhận là trong một báo cáo năm 1617 (Jap-Sin 114, fol. 144v-145v). Ngoài tên các địa danh như Cochinchina, Tonquin, Faifo, Pullo Cambim, tôi còn ghi nhận con chữ   Chuua (Chúa).

 

Qua nghiên cứu 20 báo cáo thời kỳ này, tôi ghi nhận việc ghi âm đầu tiếng Việt không có nhiều trở ngại. Các thừa sai rất nhanh chóng tìm ra các con chữ Latinh phù hợp để ghi âm đầu tiếng Việt. Các báo cáo thời kỳ này có 24 âm đầu được ghi bằng các con chữ La-tinh (từ điển Việt-Bồ La ghi nhận 26 âm đầu); tôi cũng nhấn mạnh đó không phải là do các thừa sai không ghi hết mà do thiếu từ vựng chứa đủ các âm đầu của tiếng Việt.

 

Tuy nhiên, các giáo sĩ chưa tách các con chữ (tiếng Việt đơn âm tiết nhưng các giáo sĩ ghi thành đa âm tiết). Ngoài ra, các thừa sai cũng lúng túng trong việc ghi âm phần vần của tiếng Việt. Nghiên cứu các báo cáo thời kỳ này ghi nhận có 6 con chữ a, e, i, o, ô, u để ghi âm các nguyên âm. Còn về việc ghi thanh điệu, có 4 dấu thanh  xuất hiện ” `, ´ , ?, ~ “, nhưng cách sử dụng các dấu thanh này còn chưa thống nhất.

 

 

XEM TIẾP >>>>>

 

---------------------------------------

Chữ Quốc ngữ thuở giao thời: Giữa những biến cố chính trị

10/02/2020

 

 

 


No comments: