Sau cuộc gặp gỡ là gì : an ninh, kinh tế và công nghệ cao ?
Nguyễn Mạnh Hùng
- RFA
19/09/2023
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/30119-sau-cu-c-g-p-g-la-gi-an-ninh-kinh-t-va-cong-ngh-cao
Tuyên bố chung Việt Mỹ : đằng sau vấn đề kinh tế là
vấn đề an ninh
Hôm
10/9, Tổng thống Biden thăm Việt Nam và Việt Mỹ nâng cấp quan hệ lên Đối tác
chiến lược toàn diện. Đồng thời hai bên công bố một bản Tuyên bố chung. Nhân dịp
này, RFA phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Giáo sư Huân công ngành quan hệ quốc
tế Đại học George Mason, Hoa Kỳ, về các thế chiến lược trong quan hệ Việt Mỹ được
thể hiện qua bản tuyên bố chung đó.
https://live.staticflickr.com/65535/53199774035_7e9bf71629.jpg
Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Tổng thống Biden hôm 10/9/2023 tại Hà Nội - The White
House
RFA : Xin Giáo sư cho một đánh giá tổng quan về Tuyên bố
chung Việt Nam Hoa Kỳ khi họ nâng cấp quan hệ lên "Đối tác chiến lược toàn
diện".
Nguyễn Mạnh Hùng : Trong
tuyên bố chung đó, cùng với bài phát biểu ngắn trong Bạch Cung thì tôi thấy có
hai điểm.
Điểm thứ nhất là những đòi hỏi xưa nay của hai bên, một bên thường hay
đòi hỏi phát triển nhân quyền, còn bên kia đòi hỏi phải hàn gắn những vết
thương chiến tranh, thì giờ đây chỉ được nhắc lại theo cách có tính chất hình
thức.
Điểm thứ hai là họ nhấn mạnh nhất đến vấn đề kinh tế. Họ nâng cấp quan
hệ vượt cấp, từ Đối tác toàn diện thì thường phải qua Đối tác chiến lược, nhưng
họ lên thẳng Đối tác chiến lược toàn diện. Trong Tuyên bố chung có rất nhiều
cam kết. Tôi thấy các cam kết nổi bật trong đó là liên quan đến kinh tế.
Đặc điểm của các cam kết hợp tác kinh tế này là mặc dù họ không nói đến
quốc phòng, nhưng rõ ràng các hợp tác kinh tế đó đều có liên quan đến quốc
phòng. Ví dụ các cam kết trong lĩnh vực AI (trí tuệ nhân tạo, artificial
intelligent), vấn đề an ninh mạng (cybersecurity), công nghệ thông tin... Quan
trọng hơn cả là sự có mặt của các nhà đầu tư lớn của Mỹ. Một số đã có mặt ở Việt
Nam rồi, một số sẽ có mặt trong tương lai.
Như vậy có hai điểm quan trọng trong bản Tuyên bố chung. Thứ nhất là
chiến lược, thứ hai là kinh tế.
Khi nghe bài nói chuyện của ông Biden và ông Trọng trong cuộc họp báo
chung thì tôi để ý thấy ông Trọng nói rằng ông rất ấn tượng chuyến thăm của
mình tới Bạch Cung năm 2015. Và ông Trọng nhắc lại lời mời của ông Biden hồi
tháng 7 năm 2023 mời ông thăm Bạch Cung nhưng ông chưa có điều kiện đi thăm.
Như vậy ông Trọng tô đậm thắng lợi của Việt Nam là ông Biden công nhận thể chế
chính trị của Việt Nam. Như vậy hai bên bỏ cái mô thức lâu nay là đảng quan hệ
với bên đảng, quốc gia quan hệ với quốc gia. Nay Mỹ bỏ cái mô thức ấy mà công
nhận đặc thù của Việt Nam.
Hai bên cũng nói rõ là tôn trọng thể chế chính trị của nhau, không can
thiệp vào nội bộ của nhau. Điều này làm chúng ta liên tưởng tới tư duy chính trị
thế kỷ 19, khi mà người ta chỉ nhắm đến việc cân bằng quyền lực, quyền lợi quốc
gia, chứ không nói đến việc can thiệp nội bộ hay tôn trọng thể chế. Như vậy,
ông Trọng nhắc đến những gì mà Việt Nam đạt được trong buổi họp báo.
Về phía Mỹ thì dĩ nhiên Mỹ muốn một Việt Nam hùng mạnh, mà muốn Việt
Nam hùng mạnh thì Việt Nam phải có khả năng quốc phòng. Trước đây hai bên thường
nói đến Coastguard (bảo vệ bờ biển) còn bây giờ có rất nhiều điều cho thấy
ngoài sự hiện diện của những nhà chế tạo công nghệ mới nhất, thì còn nói đến vấn
đề "Friend-shoring" (chuyển sản xuất đến những nước thân thiện).
Chuyện đó hoàn toàn có thể đẩy tới vấn đề công nghệ mới, mà các công
nghệ mới như AI (trí tuệ nhân tạo) đều quan hệ tới vấn đề quốc phòng cả chứ
không chỉ là chuyện kinh tế thuần túy. Mà Việt Mỹ lại nhấn mạnh vấn đề cộng tác
hai bên, và Mỹ nói Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia vào chuỗi cung ứng này. Nếu
Việt Nam vào được chuỗi cung ứng của Mỹ thì nó tạo niềm tin chiến lược mạnh
hơn. Có hai điểm:
Thứ nhất là về phương diện thực tiễn, nó có thể giúp Việt Nam tăng khả
năng quốc phòng của mình. Việt Nam có thể đạt được điều đó qua sự cộng tác
nghiên cứu.
Thứ hai, sự cộng tác này làm cho Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của
Mỹ. Nếu làm được điều đó thì như tôi nói ở trên niềm tin chiến lược của hai bên
sẽ mạnh hơn. Tôi thấy niềm tin chiến lược Việt Nam và Mỹ vẫn còn yếu. Nó còn yếu
do nhiều lý do khác nhau, nhất là thời chính quyền trước của Mỹ đã làm niềm tin
chiến lược đối với Mỹ đã bị tổn hại rất nhiều. Chính quyền Biden đã làm rất nhiều
để sửa điều đó. Nhưng đây là việc khác, mình có thể bàn sau.
*
RFA : Giáo sư nói Mỹ muốn một Việt Nam hùng mạnh. Xin
Giáo sư giải thích vì sao một Việt Nam hùng mạnh thì phù hợp với lợi ích của nước
Mỹ.
Nguyễn Mạnh Hùng : Trong bản tuyên bố chung,
không có ai nhắc tới Trung Quốc. Nhưng tất cả những gì Mỹ đã và đàm là để đối
phó với thách thức của Trung Quốc, từ việc lập ra dự án tàu ngầm hạt nhân
AUKUS, lập ra QUAD, tập trận chung với Ấn Độ, và gần đây là họp thượng định giữa
Biden và Thủ tướng Nhật Bản và Tổng thống Đại Hàn. Tức là ông Biden đã cố gắng
tái lập liên minh bị ông Trump phá. Khi ông mới lên, ông Trump đã gây sự với Đại
Hàn và Nhật Bản. Ông Biden đã cố gắng gỡ lại liên minh cũ. Nếu ông Biden không
làm được điều đó thì ASEAN cũng không thể tin Hoa Kỳ được.
Nếu mình nhìn vào những gì Trung Quốc hiện nay đang làm, ta thấy họ
hành động từ Phi Châu, lập ra BRICS, đến mời thêm các nước khác vào BRICS, rồi
hành động ở các nước Châu Mỹ Latin, ta thấy hành động của họ có vẻ muốn cạnh
tranh với Mỹ trên toàn thế giới. Họ muốn chiếm một địa vị quan trọng trên thế
giới, tức là trật tự thế giới phải có sự hiện diện của mình.
Tuy nhiên, Trung Quốc khả năng nhiều nhất ở địa phương, tức là vùng
Đông Nam Á. Mục đích gần là họ muốn thống soái vùng Đông Nam Á, tức là tạo cái
thế unipolarity (thế đơn cực). Vì vậy họ cố gắng đẩy Mỹ ra khỏi vùng Asia
Pacific (Châu Á Thái Bình Dương), trong đó có Biển Đông.
Khi Trung Quốc muốn đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông thì trước tiên họ cố gắng
đẩy Mỹ ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất xung quanh họ. Sau đó nếu có thể được thì đẩy
Mỹ ra khỏi chuỗi đảo thứ hai. Để làm được điều đó, trước hết, họ cố gắng tạo ra
được thế thống soái ở vùng Biển Đông bằng cách xây dựng tam giác căn cứ quân sự
trên quần đảo Trường Sa là Subi, Chữ Thập, Vành Khăn. Khi đã có tam giác này, họ
chế ngự cả vùng trời trong khu vực. Nếu Trung Quốc có thể lập thế thống soái
khu vực thì Mỹ có nguy cơ hết cửa đi vào chỗ giữ ảnh hưởng trong khu vực. Vì vậy,
để đối trọng với thế unipolarity (đơn cực) của Trung Quốc thì Mỹ phải tạo ra
multipolarity (thế đa cực) trong khu vực.
Muốn tạo ra thế đa cực trong khu vực thì Mỹ cần có các con bài chủ. Ở vòng
ngoài, phái Đông Bắc Á, Mỹ đã có Nhật Hàn là những con bài chủ. Nhưng ở Đông
Nam Á thì Mỹ chưa có. Trước hết, Mỹ gây ảnh hưởng trở lại ở Philippines. Mối
quan hệ Mỹ - Philippines trước đây bị Duterte phá nhưng bây giờ đến thời Marcos
thì quan hệ được tái lập. Mỹ đã trở lại và lập mới các căn cứ để đóng quân trên
lãnh thổ Philippines.
Sau Philippines thì Việt Nam quan trọng thứ hai. Việt Nam có vị trí rất
quan trọng để phá cái thế unipolarity (đơn cực) của Trung Quốc để tạo ra thế
multipolarity (đa cực). Dĩ nhiên trước đây Việt Nam không thể tin Mỹ ngay được
vì lo sợ Mỹ "diễn biến hòa bình". Thêm nữa, Việt Nam cũng lo lắng Mỹ
không giữ vững cam kết. Thời Trump thì Mỹ gây xích mích với Nhật Bản, Đại Hàn
là những đồng minh lâu đời. Rồi Mỹ lại còn chạy khỏi Iraq và Afghanistan thì
làm sao Việt Nam tin Mỹ được. Nhưng vấn đề là Việt Nam không tin Mỹ nhưng cần Mỹ.
Trong hai cái thế đó thì mình thấy là Việt Nam cần Mỹ hơn là Mỹ cần Việt Nam. Nếu
Trung Quốc khống chế toàn bộ Biển Đông thì Việt Nam mất hết nhưng Mỹ vẫn còn chỗ
khác, và hơn nữa Trung Quốc dù khống chế Biển Đông đi nữa thì vẫn không thể
ngăn cản quyền tự do hàng hải của Mỹ ở đó. Tôi nhìn cái thế chiến lược hiện nay
là như thế: Việt Nam nghi họ nhưng cần họ, và cả Đông Nam Á cũng tương tự như vậy.
*
RFA : RFA xin cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ
với khán thính giả của chúng tôi về vấn đề "niềm tin chiến lược" giữa
hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Ở phần tiếp theo, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng sẽ chia
sẻ với khán thính giả RFA về tam giác lợi ích "chiến lược, kinh tế, giá trị".
**********************
Tam giác lợi ích "chiến lược", "kinh
tế", "giá trị" trong quan hệ Việt Mỹ
Ở phần trước, RFA đã phỏng vấn Giáo sư
Nguyễn Mạnh Hùng về bản tuyên bố chung Việt Nam Hoa Kỳ nhân hai nước nâng cấp
quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện và bối cảnh chính trị quốc tế của động
thái này. Quan hệ Việt Mỹ thương bị phủ bóng bởi nỗi lo Mỹ sẽ "bỏ
rơi" Việt Nam nếu nước này tiến lại gần Mỹ hơn trong khi láng giềng Trung
Quốc khổng lồ phía bắc có thể gây những áp lực lớn hơn nếu Mỹ rời khỏi khu vực.
Để giải đáp cho độc giả RFA về vấn đề nêu trên, ở phần này, Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng chia sẻ với RFA về ba lợi ích "chiến lược", "kinh tế",
"giá trị" trong các quyết định của Mỹ đối với các vấn đề ngoại giao.
https://live.staticflickr.com/65535/53199435041_77c9e6f3bb.jpg
Hoa Kỳ - Việt Nam
tuyên bố nâng cấp quan hệ lên "Đối tác chiến lược toàn diện" hôm
10/9/2023 - AFP
RFA : Giáo sư từng viết trong cuốn sách "Strategic
Asia 2014–15 : U.S. Alliances and Partnerships at the Center of Global
Power" (tạm dịch "Á Châu chiến lược 2014-2015: Các liên minh và quan
hệ đối tác của Hoa Kỳ ở trung tâm quyền lực toàn cầu") của Cục Nghiên cứu
Châu Á Quốc gia rằng muốn tăng cường hợp tác an ninh, hai nước Việt Mỹ cần xây
dựng lòng tin lẫn nhau. Mỹ cần cho Việt Nam thấy rằng Mỹ không có lợi ích chiến
lược trong việc phá hoại chế độ hiện tại. Đồng thời, Việt Nam phải hiểu rằng việc
thiếu tiến bộ về nhân quyền là trở ngại lớn để thắt chặt quan hệ song phương.
Xin Giáo sư giải thích về vấn đề này.
Nguyễn Mạnh Hùng : Về niềm
tin chiến lược thì Mỹ là nước lớn nên không cần lắm. Nhưng Việt Nam vì phải cân
bằng giữa Trung Quốc và Mỹ nên niềm tin chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ quan
trọng hơn nhiều. Bởi vì nếu Việt Nam theo Mỹ mà Mỹ lại bỏ mình thì chết với
Trung Quốc. Do đó Việt Nam phải nghi ngờ, phải đặt ra khả năng Mỹ làm chuyện
đó. Trong quyển sách của ông Đinh Quang Anh Thái mới đây, (RFA chú thích : sách
"Nguyễn Mạnh Hùng - Khoảnh Khắc Nhìn Lại", Người Việt xuất bản, 2023)
tôi có nhắc lại chuyện ngày xưa ông Hồng Hà có hỏi tôi là "đi với Mỹ thì Mỹ
có bỏ mình không", tôi có nói là "Mỹ bỏ thì cũng là do lợi ích, mà
không bỏ cũng là do lợi ích". Tóm lại đối với Việt Nam, niềm tin chiến lược
rất quan trọng, quan trọng hơn với phía Mỹ.
Vì thế, chuyến đi của Biden rất quan trọng vì nó giúp cho niềm tin chiến
lược tăng thêm nhiều. Trong cuộc họp báo, ông Nguyễn Phú Trọng nói đây chỉ là
khởi đầu, còn phải chờ thi hành nữa. Việc hai nước nâng cấp quan hệ chỉ là khởi
điểm, điều quan trọng là sau đó phải có hành động, phải tiến lên.
Bây giờ trở lại vấn đề tự do tôn giáo, tự do nhân quyền, như tôi viết
trong quyển sách năm 2015, đối với Mỹ, nước Mỹ có 3 quyền lợi : quyền lợi về
chiến lược, quyền lợi về kinh tế và quyền lợi về giá trị. Khi quyền lợi chiến
lược lớn lên thì quyền lợi về giá trị như nhân quyền, tự do sẽ giảm đi, ví dụ
trường hợp Saudi Arabia trong nhiều năm. Lợi ích về chiến lược của Saudi Arabia
rất lớn nên lợi ích về nhân quyền bé đi. Với trường hợp Việt Nam, trước đây khi
lợi ích về chiến lược, kinh tế với Việt Nam còn nhỏ thì lợi ích về giá trị lớn
lên. Lúc đó Mỹ nói nhiều về vấn đề nhân quyền. Nhưng bây giờ thì dần dần Mỹ lờ
dần vấn đề đó đi. Tại sao như thế ? Vì nền ngoại giao của Mỹ dựa trên ba lợi
ích đó.
Tuy nhiên, vấn đề nhân quyền có giảm do lợi ích chiến lược và kinh tế
tăng đi nữa thì sẽ không bao giờ bỏ được, bởi vì có quyền lợi của định chế. Ví
dụ bên hành pháp thì ở Bộ Ngoại giao Mỹ từ thời ông Tổng thống Carter đã có một
văn phòng chuyên về vấn đề human rights (nhân quyền), tự do tôn giáo. Sau này,
bên lập pháp thì Quốc hội Mỹ còn lập ra Ủy ban Tự do Tôn giáo. Các cơ quan này
có quyền lợi về định chế của họ. Việc của họ là phải làm việc đó, mỗi năm phải
báo cáo về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo. Để làm những việc đó thì các
cơ quan này sẽ đặt áp lực lên các cơ quan đại sứ Mỹ ở nước ngoài. Các đại sứ để
báo cáo tốt thì phải làm thật. Tóm lại là luôn luôn có vấn đề nhân quyền mà Việt
Nam phải "manage", tức là phải xử lý vấn đề nhân quyền với Mỹ để họ
làm những việc khác cho mình. Tôi thấy hiện nay Mỹ không phản đối nhiều lắm,
nhưng tôi nghĩ Việt Nam chắc chắn sẽ có những hành động đáp ứng để ông Biden đi
về vui vẻ và hai bên có thể cộng tác nhiều hơn.
Nhưng dẫu sao thì vấn đề giá trị sẽ không trở thành vấn đề lớn như vấn
đề chiến lược và kinh tế. Trước đây Đông Nam Á rất phàn nàn Mỹ, ví dụ như trong
hội nghị Shangri-La mới đây chẳng hạn, Trung Quốc nói rất nhiều về cộng tác
kinh tế. Trung Quốc còn có chương trình Vành đai Con đường. Mặc dù chương trình
này hay bị nói là một cái bẫy nợ, nhưng các vị chính trị gia thì chỉ nhìn vào lợi
ích. Họ cần tiền để xây dựng hạ tầng, nên họ cứ làm rồi tính sau. Họ nghĩ là
tương lai sẽ tránh được bẫy nợ Trung Quốc. Còn phía Mỹ thì ông Austin Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ chỉ toàn nói về vấn đề chiến lược, đồng minh. Những vấn đề đó
không hấp dẫn Đông Nam Á. Thành ra lần này ông Biden mang theo cả một gói kinh
tế sang Việt Nam. Thông điệp của Mỹ là "chúng tôi đã trở lại". Vấn đề
ở đây là kinh tế.
*
RFA : Xin Giáo sư cho biết tại sao hệ thống chính trị Mỹ
lại cần quan sát các vấn đề nhân quyền trên toàn cầu. Có phải vì sự phát triển
nhân quyền trên toàn cầu ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích quốc gia của Mỹ ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Có. Đúng vậy.
*
RFA : Xin Giáo sư giải thích. Tại sao họ phải có đến hai
cơ quan khác nhau của hai nhánh quyền lực độc lập là hành pháp và lập pháp cùng
phụ trách vấn đề nhân quyền trên toàn cầu ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Các cơ quan đó mới lập ra gần
đây nhưng thực ra có nguồn gốc từ thuở khai quốc của nước Mỹ. Khi mới lập quốc,
người Mỹ cho rằng họ khác Châu Âu : chúng tôi từ Châu Âu sang đây, lập một quốc
gia quan trọng và tiến bộ hơn, chúng tôi dân chủ, nhân quyền. Hồi đó người Mỹ
thường nói mình là "city in the hill", thành phố ở trên đồi cao,
sáng, còn xung quanh ở bên dưới vẫn đang nằm trong bóng tối. Giá trị nhân quyền
đã có ngay từ thời "nguyên thủy" của nước Mỹ, nằm trong DNA của người
Mỹ. Trong cuộc chiến tranh Lạnh thì đối với Mỹ đó là cuộc va chạm giữa
"dân chủ" và "cộng sản". Như vậy họ coi đó là cuộc đấu về
giá trị. Sau này có những tổng thống như ông Carter, mặc dù ông yếu về chiến lược
nhưng rất thành thật, rất mạnh về niềm tin nhân quyền. Nên dưới thời Carter thì
Bộ Ngoại giao mới bắt đầu có cơ quan phụ trách về nhân quyền. Từ kì thủy người
Mỹ đã quan tâm vấn đề giá trị nhân quyền, sau này có lại một tổng thống chính
thức thúc đẩy nó, và sau này thêm cả vấn đề tự do tôn giáo.
Sự phát triển đó là nhờ sự thúc đẩy của xã hội dân sự Mỹ. Các hội đoàn
xã hội ở Mỹ thúc đẩy chính phủ Mỹ quan tâm đến các vấn đề giá trị đó.
Mỹ lúc bấy giờ có ảnh hưởng toàn thế giới. Những giá trị này là giá trị
Mỹ. Do đó, nếu ai muốn đồng ý với Mỹ thì cũng phải quan tâm đến các giá trị đó.
Quyền lợi về giá trị này không bao giờ mất đi được, dù có thể tăng giảm từng
giai đoạn. Nhân quyền như tôi đã nói là một trong ba quyền lợi quốc gia của Mỹ:
chiến lược, kinh tế, giá trị. Khi nào bang giao tốt, quyền lợi chiến lược tăng
lên thì quyền lợi giá trị giảm đi. Ai thông minh thì phải biết xử lý vấn đề đó.
*
RFA : RFA xin cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ
với khán thính giả của chúng tôi ề tam giác lợi ích "chiến lược, kinh tế,
giá trị". Ở phần tiếp theo, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đề cập tới bài học
Đài Loan và Philippines cho Việt Nam trong quan hệ với Mỹ
**********************
Bài học Đài Loan và Philippines cho Việt Nam trong
quan hệ với Mỹ
Tiếp theo phần trước, Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng chia sẻ với khán thính giả RFA những suy nghĩ riêng về cách ứng xử của Việt
Nam khi xử lý tam giác lợi ích "chiến lược, kinh tế, giá trị" với Mỹ.
Ông dẫn hai ví dụ về Đài Loan và Philippines để cho thấy những cải cách quyết
đoán và quan hệ cá nhân giữa các nhà lãnh đạo hai nước có thể có những tác động
như thế nào đến mối quan hệ thực sự giữa hai nước trong thực tế.
https://live.staticflickr.com/65535/53198973547_e591ebaf4d.jpg
Lãnh đạo hai nước Việt
Nam - Hoa Kỳ họp báo chung sau khi tuyên bố nâng cấp quan hệ song phương hôm
10/9/2023 tại Hà Nội - AFP
RFA : Như Giáo sư nói Việt Nam hiện nay vẫn lo sợ Mỹ bỏ
rơi. Trước đây Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa. Mỹ đánh Afghanistan rồi bỏ đi.
Trước đây đánh Iraq rồi giữa chừng cũng bỏ về, để cho Iraq ngày nay tự xử với
các nhóm loạn quân ở bên trong. Nhưng nhìn lại, ta thấy Mỹ có nhiều đồng minh
mà họ không bỏ rơi, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc. Mỹ hỗ trợ cho phát triển và
chung thủy đến giờ. Có phải là những đồng minh hội tụ cùng lúc cả ba quyền lợi
là chiến lược, kinh tế và giá trị thì sẽ không bị bỏ rơi hay không ? Có phải một
đồng minh nếu chỉ có lợi ích về mặt chiến lược thì sẽ bị bỏ rơi khi lợi ích chiến
lược không còn ? Một đồng minh của Mỹ thường bị bỏ rơi trong điều kiện nào và
không bị bỏ rơi trong điều kiện nào ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Thực ra thì ba loại quyền lợi
trên không phải ngang bằng nhau. Thứ nhất là chiến lược, thứ hai là kinh tế và
thứ ba mới là giá trị. Điều bạn nói một phần nào đó là đúng, ít nhất đúng với
trường hợp Châu Âu. Ngược lại đối với Hàn Quốc thời Park Chung-hi rất độc tài
nhưng Mỹ không bỏ rơi. Đài Loan thời Tưởng Giới Thạch rất độc tài nhưng Mỹ
không bỏ rơi.
Nhưng thời thế thay đổi thì chính sách Mỹ cũng thay đổi.
Khi người Việt Nam hỏi tôi về vấn đề "bỏ rơi", tôi có lấy ví
dụ vấn đề Đài Loan : năm 1979 thì Đài Loan gần như bị Mỹ bỏ rơi. Lúc đó Carter
đã điều đình với Trung Quốc, tiếp nối chính sách của Nixon. Đó là lúc Đặng Tiểu
Bình sang Mỹ rồi về đánh Việt Nam. Mỹ chấp nhận Trung Quốc là một đối tác, một
người để đối thoại. Trung Quốc là độc tài. Lúc đó Mỹ đã bỏ Đài Loan. Trước hết,
họ hạ thấp tầm của Đài Loan với chính sách chỉ có "một Trung Quốc". Tất
nhiên, trong thông cáo chung Hoa Kỳ - Trung Quốc khi đó cũng có thêm một câu để
cứu Đài Loan : ủng hộ "một Trung Quốc" nhưng cũng ủng hộ sự thống nhất
"trong hòa bình". Câu này là cơ sở cho Đạo luật "Taiwan
Relations Act" năm 1979, theo đó Mỹ phải giúp Đài Loan tự phòng thủ. Tức
là họ chỉ tập trung vào vấn đề phòng thủ, không chấp nhận hai bên thống nhất bằng
vũ lực. Lúc đó Mỹ đã rút quân tuần tra eo biển Đài Loan, sẵn sàng bỏ về bất kì
lúc nào.
Ngay lập tức, ông Tưởng Kinh Quốc cải tổ, trở thành dân chủ. Khi cải tổ
trở thành dân chủ thì trùng hợp với Mỹ về quyền lợi giá trị. Bạn nói đúng ở điểm
đó là các quyền lợi về chiến lược đã khác nhau, nhưng quyền lợi giá trị trở nên
giống nhau. Bất chấp chính sách của bên hành pháp, bên lập pháp Mỹ đã ủng hộ
Đài Loan. Nếu như trước 1979 thì Đài Loan có thị trường còn Trung Quốc đại lục
không có, thì sau 1979 đại lục cũng có thị trường như Đài Loan nhưng quy mô thị
trường lớn hơn. Như vậy quyền lợi kinh tế thì Đài Loan sẽ không bằng được Trung
Quốc, nhưng lúc này Đài Loan lại đem đến một quyền lợi khác là giá trị. Khi
Trung Quốc phóng tên lửa qua eo biển Đài Loan vì giận dữ khi Trung Hoa Dân quốc
(Đài Loan) tổ chức cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên năm 1996 thì ông Bill
Clinton đã điều động hai hạm đội hàng không mẫu hạm đến khu vực. Đó là cuộc điều
động lực lượng lớn nhất của Mỹ từ sau chiến tranh Việt Nam. Lúc đó, Trung Quốc
đã rút lui.
Điều đó có nghĩa là không phải lúc nào Mỹ cũng bỏ rơi đồng minh. Yếu tố
giá trị đã trở nên quan trọng ở thời điểm đó, ở điểm đó, trong chế độ đó.
*
RFA : Vậy điều đó có hàm ý cho quan hệ Việt Mỹ ngày nay
không ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Nếu có hàm
ý chung chung cho quan hệ hai nước thì tôi nghĩ Mỹ muốn Việt Nam dân chủ và
phát triển nhân quyền, nhưng Mỹ không tìm cách thay đổi chính quyền. Mỹ không
có lợi ích trong việc thay đổi chính thể ở Việt Nam. Bởi vì nếu thay đổi chính
thể và chính phủ nên hỗn loạn như khi lật đổ ông Diệm năm 1963 thì chính trị hỗn
loạn. Việt Nam bị nát ra thì sẽ tạo ra khoảng trống quyền lực. Mà khoảng trống
quyền lực khi đó có thể bị lấp đầy bằng một lực lượng thù nghịch với Mỹ. Về
phương diện chiến lược thì Mỹ không có lợi ích gì nếu Chính phủ Việt Nam bị lật
đổ. Đối với Mỹ, nếu Việt Nam dân chủ hơn, phát triển về nhân quyền hơn thì càng
tốt, vì như thế sẽ được sự ủng hộ của cả bên Quốc hội, của nhân dân. Còn nếu Việt
Nam không phát triển theo hướng đó thì Mỹ cũng không có lợi ích gì nếu Chính phủ
Việt Nam bị lật đổ.
Tất nhiên, trong chính trị, không có công thức bất biến. Ngay cả khi Việt
Nam chia sẻ thêm với Mỹ một lợi ích khác nữa là lợi ích về giá trị thì không có
gì bảo đảm chắc chắn là Mỹ vẫn không bỏ rơi. Ví như thời ông Trump thì Mỹ cũng
gây sự với cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Không có gì đúng tuyệt đối. Cái gì cũng chỉ
có tính tương đối.
Tôi nghĩ về phương diện quốc phòng, mối quan hệ cá nhân giữa các nhà
lãnh đạo quốc phòng hai nước rất quan trọng. Ví dụ như quan hệ quốc phòng Mỹ -
Philippines đã có khoảng 70 năm quan hệ quốc phòng, nên khi ông tổng thống
Duterte phá thì phá không được. Mối quan hệ lại trở lại. Quan hệ quốc phòng Mỹ
- Việt Nam đòi hỏi hai bên có những vị tướng, những vị chỉ huy quốc phòng có thể
nói chuyện trực tiếp với nhau, có thể gọi điện thoại nói chuyện thân mật với
nhau. Nếu đạt được giai đoạn đó thì hai bên sẽ gắn bó rất nhiều.
*
RFA : Theo Giáo sư, để tạo ra mối quan hệ đó thì cần những
điều kiện gì ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Bây giờ mình thấy là Mỹ đã
đào tạo cho mình rồi. Như phi công thì Mỹ đã đào tạo cho mình rồi. Nếu hai bên
mua bán vũ khí thì dĩ nhiên phải đào tạo cách sử dụng. Nhưng tôi nghĩ sẽ phải đến
lúc hai nước có "co-production" ("sản xuất chung") để chuyển
giao công nghệ. Nếu Mỹ thành thật muốn giúp Việt Nam thì phải có sản xuất chung
và chuyển giao công nghệ. Muốn như thế thì hai bên đều cần có các cấp sĩ quan
cơ sở cộng tác với nhau. Những sĩ quan học ở West Point khi tốt nghiệp thì trở
thành bạn của nhau, khoảng mười năm sau thì thành sĩ quan cấp cao hết cả. Và họ
cộng tác với nhau. Đó là tính chuyện lâu dài, còn trước mắt cần xây dựng mối
quan hệ cá nhân giữa các lãnh đạo quân sự hai nước, như ông Bộ trưởng quốc
phòng, ông Tổng tham mưu trưởng. Họ cần quan hệ một cách ngang hàng, làm cho
người ta kính trọng mình, tức là kính trọng thật chứ không phải ngoại giao.
Nếu Việt Nam muốn tăng cường quốc phòng với Mỹ thì lãnh đạo Bộ quốc
phòng Việt Nam rất quan trọng. Thái độ và khả năng của Bộ Quốc phòng Việt Nam rất
quan trọng trong việc quyết định mối quan hệ an ninh có tiến lên hay không,
trong việc thi hành các cam kết.
Nếu Bộ quốc phòng có những liên hệ cá nhân với phía Mỹ thì niềm tin chiến
lược sẽ tăng lên cao. Về định chế thì hai bên đã có nhu cầu đó, nhưng về phương
diện cá nhân thì các vị lãnh đạo quốc phòng có đáp ứng được nhu cầu đó hay
không là vấn đề quan trọng. Hai bên đẩy được quan hệ quốc phòng tới đâu thì tùy
thuộc vào phía Việt Nam thôi.
*
RFA : RFA xin cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ
với khán thính giả của chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Ở phần cuối cùng, Giáo sư
Nguyễn Mạnh Hùng sẽ chia sẻ với RFA về tầm quan trọng của AI (trí tuệ nhân tạo)
đối với sự phát triển và an ninh của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ.
*************************
Công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo) trong quan hệ Việt
Mỹ
Hợp tác phát triển AI (trí tuệ nhân tạo)
là một trong những nội dung quan trọng của Bản tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ
nhân dịp hai nước nâng cấp quan hệ gần đây. RFA phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng về lý do loại công nghệ mới này trở thành một tâm điểm trong lời hứa hẹn về
quan hệ mới giữa hai nước Việt Mỹ.
https://live.staticflickr.com/65535/53198973557_90e3e57513.jpg
Trung Quốc giới thiệu
máy bay phản lực không người lái FH-97A tại triển lãm hàng không Zhuhai (Chu Hải)
vào tháng 11/2021 - Reuters
RFA : Henry Kissinger cùng hai tác giả khác, trong cuốn
sách "The Age of AI : And Our Human Future" ("Thời đại của AI và
tương lai con người") năm 2021, đã xếp công nghệ AI vào một loại cách mạng
công nghiệp, tương tự cách mạng công nghiệp diễn ra với động cơ hơi nước thế kỉ
18, động cơ đốt trong và sử dụng điện ở thế kỉ 19, công nghệ bán dẫn từ thập
niên 1960s thế kỉ 20, và ngày nay là AI (trí tuệ nhân tạo). Xin Giáo sư cho biết
vấn đề lớn nhất của công nghệ AI mà loài người ngày nay đang đối mặt là gì
?
Nguyễn Mạnh Hùng : Vấn đề của
AI là làm ra đã khó, áp dụng càng khó hơn. Công nghệ này đặt ra một yêu cầu đối
với con người là cần có cách để "deterrent" (răn đe, ngăn chặn) việc
áp dụng nó cho mục đích xấu. Nhưng hiện nay, con người chưa có cách nào để
"ngăn chặn, răn đe" các mặt tiêu cực của nó.
Ví dụ, trong chiến tranh nguyên tử, cách thức "deterrent"
(răn đe, ngăn chặn) là xây dựng "second strike ability", tức là khả
năng đánh trả bằng vũ khí nguyên tử sau khi bị tấn công nguyên tử. Thêm nữa là
xây dựng khả năng sống sót sau khi bị tấn công nguyên tử, ví dụ xây dựng nhiều
hệ thống đa dạng để khi hệ thống này bị vũ khí nguyên tử của đối phương tiêu diệt
thì vẫn còn hệ thống khác, hay như xây dựng hệ thống ngầm trong lòng đất. Nhưng
ở thời đại AI, công nghệ AI có tiềm lực phá được hết những cách thức đó. Hơn nữa,
con người đã có vũ khí sử dụng công nghệ AI nhưng chưa có vũ khí để kháng lại
vũ khí AI. Đó là một tình thế nguy hiểm cho thế giới.
Trong chiến tranh Ukraine ngày nay, các loại vũ khí Ukraine sử dụng do
phương Tây viện trợ đều tích hợp một mạng lưới các công nghệ mới, trong đó có
internet vệ tinh và AI. Nói tóm lại, AI là một khám phá mới, đảo lộn đời sống
con người. Nó có thể tốt hoặc xấu nhưng con người chưa biết cách kiểm soát cái
xấu.
*
RFA : Trung Quốc cũng phát triển mạnh công nghệ AI. Nhiều
trung tâm nghiên cứu của Mỹ cảnh báo Trung Quốc có thể vượt Mỹ trong lĩnh vực
này. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra vấn đề lớn nhất của công nghệ AI ở Trung Quốc
là họ sử dụng nó để phục vụ cho một nhà nước cảnh sát, kiểm soát tư tưởng của từng
người dân đến từng ngõ ngách xã hội. Việt Nam sẽ học công nghệ AI của ai ?
Trung Quốc hay Mỹ ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Dĩ nhiên,
Việt Nam sẽ học cả hai. Có hai vấn đề là học để tiếp thu công nghệ và ứng dụng
công nghệ đó. Thứ nhất, Việt Nam sẽ học Hoa Kỳ ở những kỹ thuật tối tân. Ai tối
tân thì họ học theo. Thứ hai, về việc áp dụng, thì sẽ học cả Trung Quốc. Họ có
nhu cầu kiểm soát thì họ sẽ học Trung Quốc. Nhưng còn tùy thuộc vào cá nhân
lãnh đạo của Việt Nam : họ muốn cái gì. Đã là lãnh đạo chính trị thì thường sẽ
có xu hướng muốn kiểm soát dân chúng, nhưng ở nước có cơ chế dân chủ thì cơ chế
không cho phép thực hiện điều đó.
Nhưng điều quan trọng nhất là sự nguy hiểm của trí tuệ nhân tạo nằm ở
chỗ khác, không phải ở chỗ đó. Sự nguy hiểm của AI là người ta chưa biết cách
kiểm soát nó. Người ta có thể sử dụng công nghệ AI để tàn phá môi trường dễ
dàng, ví dụ, bằng cách chế tạo những chương trình phần mềm điều khiển việc phá
đập nước ở nơi muốn phá. Nhưng chưa ai biết chống lại những việc như vậy như thế
nào.
Nó giúp cho con người rất nhiều nhưng cũng có tiềm năng đem lại cái xấu.
Ví dụ giáo sư đại học chấm bài của sinh viên bây giờ rất khó để biết bài do
sinh viên làm hay máy làm. Mặc dù cũng có cách để kiểm tra nhưng công nghệ cũng
ngày càng tinh xảo để không kiểm soát được.
AI cũng có thể gây ra thất nghiệp hàng loạt. Thất nghiệp hàng loạt có
thể dẫn đến nội loạn.
*
RFA : Như vậy trong quân sự, loài người đã có các loại
vũ khí để chống lại các vũ khí truyền thống, kể cả vũ khí nguyên tử, nhưng biết
cách nào chống lại vũ khí AI ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Chưa biết
được cách nào. Vũ khí AI có thể được sử dụng để tấn công tự động. Không ai biết
trước khả năng xảy ra nhầm lẫn, sai sót, gây ra tấn công tự động ngoài kiểm
soát và dẫn đến chiến tranh thế giới. AI lại còn được trao vào tay tư nhân, và
trong một số trường hợp họ quyết định luôn chính sách ngoại giao của một số nước.
Internet vệ tinh Starlink của Elon Musk là một hệ thống tích hợp AI và nhiều
công nghệ khác. Elon cắt internet Starlink của Ukraine thì Ukraine cũng không
đánh trả Nga được. Elon nói Ukraine đánh đến đây thôi, không được đánh thêm. Đó
là một điều nguy hiểm vì không ai phán đoán được hành xử các cá nhân kiểm soát
công nghệ quan trọng này.
*
RFA : Nếu Việt Nam ứng dụng công nghệ AI theo cách chơi
với cả hai, Trung Quốc và Mỹ, thì điều này có khả thi không ? Vì trong lĩnh vực
này, nếu Việt Nam đi với Trung Quốc thì các doanh nghiệp phương Tây sẽ rút lui
không ?
Nguyễn Mạnh Hùng : Việc phát minh, chế tạo
khác với việc thực hành. Áp dụng để kiểm soát xã hội thì Việt Nam có thể bắt
chước Trung Quốc. Bắt chước chứ không phải theo Trung Quốc. Còn phát triển công
nghệ thì rõ ràng Việt Nam có thể sẽ theo chiều hướng Mỹ vì Mỹ đã tỏ ý giúp. Việt
Nam không theo mô hình Trung Quốc mà theo mô hình của mình, tức là làm gì có lợi
nhất cho mình.
Về phát triển năng lực công nghệ AI thì Việt Nam dĩ nhiên sẽ vui vì được
được một nước lớn, có công nghệ nguồn giúp cho, để cho mình trong tương lai đủ
năng lực vào chuỗi cung ứng. Nhưng về mặt áp dụng AI để kiểm soát xã hội thì nếu
Việt Nam áp dụng nhiều quá thì Mỹ có thể phản đối. Tất nhiên, Mỹ phản đối hay
không thì tùy thuộc vào áp lực của xã hội dân sự ở Mỹ và cả ở Việt Nam. Nếu Việt
Nam càng ngày cộng tác tốt với Mỹ thì không thể ứng dụng dễ dàng công nghệ này
để kiểm soát xã hội.
Nếu Mỹ có thể giúp Việt Nam tham gia nghiên cứu chung công nghệ AI thì
nó giúp tăng niềm tin chiến lược lên rất nhiều. Bây giờ thì đó mới chỉ là lời hứa,
còn thi hành đến mức nào thì chưa ai biết.
*
RFA : RFA xin cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã dành
cho độc giả của chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Nguồn : RFA, 19/09/2023
No comments:
Post a Comment