Trong hai năm vừa qua, tôi về Việt Nam nhiều lần
và lần nào cũng ở lại khá lâu. Má tôi già, yếu nên tôi phải thường xuyên về Sài
Gòn chăm bà. Có ông bạn già hay cùng tập thể dục buổi sáng, khi gặp lại cứ tưởng
là tôi mới vắng mặt mấy tuần vì dính Covid.
Chỉ nhìn xe cộ chạy trên đường, bất kể giờ cao
điểm hay không, nhìn cách người ta mua sắm, cường độ ăn uống, người nước ngoài
đến Việt Nam luôn bị ấn tượng bởi một xã hội sống động. Ấn tượng này sẽ còn mạnh
nhiều, nếu họ biết về vòng quay chóng mặt của đồng tiền. Từ mờ sáng đến nửa
đêm, thành phố luôn chìm trong nền tiếng động gồm tiếng còi xe máy, tiếng búa đập
của các công trường, giọng loa karaoke, tiếng rao bán hàng… Cháu gái tôi 7 tuổi
từ Đức về thăm quê mẹ, rất thích thú nghe các loại tiếng rao, từ của cô bán
rau, đến cái kèn xe kem hay cái loa của ông già mua đồ cũ. Cứ mỗi lần như vậy,
nó chạy ra nghe, vẫy chào thân thiện rồi quay vào hỏi mẹ: Họ bán cái gì vậy?
Về Việt Nam tôi thường mất ngủ khá lâu, đôi
khi sau 20 ngày mới ngủ lại bình thường. Có thể là nhịp sinh học bị rối loạn do
múi giờ, nhưng cũng có thể vì những mối lo mang theo mỗi chuyến về nước. Chưa
bao giờ tôi được thảnh thơi về chơi, mỗi chuyến đi đều phải lo một chuyện gì
đó, cho mẹ già, cho người thân, cho ngôi nhà. Lúc nào cũng một nỗi bất an nào
đó ám ảnh tôi.
Rất thính ngủ nên đã hai lần tôi tỉnh giấc và
nhìn thấy kẻ trộm đứng trước mặt. Có lẽ cả hai lần đều cùng một thủ phạm, vì cả
hai tên trộm đều nhỏ bé như nhau, đều trùm kín mặt chỉ hở đôi mắt, đều mặc quần
áo màu tối bó sát người và đều có dáng chạy rất nhẹ nhàng. Cả hai lần tôi đều
la hét, rượt đuổi sát nút nhưng kẻ trộm kia đều nhảy thoát qua cửa sổ. Sau một
lúc lâu, cô giúp việc vẫn sợ rằng còn kẻ nào đó nấp trong nhà.
Từ đó mỗi khi về căn nhà ở Quận 7, mặc dù đã
đóng mấy lần cửa sổ trước khi đi ngủ, cái cảm giác mở mắt ra thấy một hình nhân
mặc bộ quần áo xám đứng trước mặt không thoát khỏi tôi nữa.
Giữa năm 2021, tôi bị mấy thứ bệnh hoành hành,
nặng nhất là đau dạ dày. Lúc đó má tôi đã tạm phục hồi, bà khuyên tôi về Đức chữa
và sẵn tiêm chủng Covid-19 luôn. Việt Nam cho đến lúc này vẫn chủ yếu dựa vào
chiến lược Zero-Covid , „tìm, quây và chặn“. Việc chuẩn bị chống dịch bằng
vac-xin chưa đi đến đâu. Đại sứ quán Đức khuyên tôi nên về nước tiêm chủng vì
Việt Nam thậm chí chưa có đủ vac-xin cho các đối tượng ưu tiên của họ.
Tôi về đến Đức giữa lúc dịch đang lên cao ở
châu Á và được tiêm chủng ngay. Rồi tôi đi soi dạ dày và lấy dịch xét nghiệm.
Trả kết quả là một cô bác sỹ trẻ măng, chắc mới ra trường vài năm. Cô hỏi:
- Ông mới ở Đông Nam Á về à?
- Vâng tôi mới ở Việt Nam về, sao cô biết?
- Ông bị viêm dạ dày do vi khuẩn HP
(Helicobacter Pylori). Đa số dân ở đó có loại vi khuẩn này trong dạ dày và nó
lây lan qua đường nước bọt, do ăn đũa.
- Vậy sao cả nhà chỉ có tôi bị đau?
- Hệ miễn dịch của họ đủ sức khống chế HP. Của
ông thì không, nhất là lúc ông yếu vì các vấn đề khác: thiếu ngủ, stress v.v.
Giờ uống kháng sinh thì sẽ hết.
À, té ra mình thuộc loại „dại gái“ HP.
Chắc là chuyện vi trùng HP và ăn đũa đã có
trong giáo trình y học nên cô bác sỹ Đức biết rõ, cả phác đồ điều trị. Sau 2 tuần
kháng sinh, hết đau. Sau đó tôi về Sài Gòn đến bệnh viện Hòa Hảo khám lại, thổi
hơi vào một cái bao để xét nghiệm: Không còn HP nữa.
Xưa nay tôi vẫn sợ ăn đũa chấm, mút chung.
Nhưng sau lần này tôi kiên quyết nhờ cô giúp việc cho tôi bát nước mắm và các
đĩa thức ăn riêng. Đi ăn ở ngoài không đòi hỏi được điều đó khiến tôi mất hẳn tự
do. Trước khi ăn, xin chủ quán một cái thìa rồi vội vã múc nước chấm và các món
ăn vào bát của mình, trước khi người khác chấm đũa vào đó. Múc quá nhiều hay
quá ít thì ráng chịu. Tuy ngồi ăn vui vẻ, râm ram nói chuyện nhưng trước khi lấy
thìa múc canh phải chú ý xem cô gái xinh đẹp, môi đỏ chót ngồi bên đã vục đũa
vào bát canh chưa. Vừa ăn vừa đánh cờ nên hơi căng thẳng, rón rén
Các cuộc vui ở ta thường quay quanh bữa ăn,
song những chuyện vặt như vậy làm cho cuộc vui „hơi căng thẳng“. Đa số người Việt
lớn tuổi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái đói của năm xưa, vẫn coi ăn nhiều thịt là diễm
phúc, mời nhau ăn nhiều thịt mới là mến khách. „Bữa cơm rau dưa“ luôn là những
bữa ăn rất nặng calo. Điều này không chỉ xảy ra ở miền Bắc, mà cả ở miền Nam
xưa nay vốn “rẽ cá mới thấy nước“, lương thực dồi dào. Vào cái thời buổi mà thừa
dinh dưỡng đang gây bệnh béo phì ở trẻ em, gây tiểu đường, mỡ gan, huyết áp ở
người già... mà quan niệm về ăn nhậu vẫn không thay đổi ở đại bộ phận dân
chúng. Vui đón giấy khen, mừng gặp nhau thì phải chén, bàn bạc về áp-phe thì phải
nhậu, tằn tiện mua được cái xe mới cũng phải „rửa“ bằng thịt chó…
Chừng nào dân ta chưa thoát khỏi „cơn ghiền nhậu“
thì nhu cầu về „thực phẩm fake“ càng cao, tác động xấu đến sức khỏe của toàn
dân. Tiêu thụ nhiều khiến giá thực phẩm bị đội lên, khiến người nghèo càng khốn
khó. Tệ hại nhất là lối sống và quan hệ con người bị méo mó vì bữa ăn.
Tôi thực sự ghen tỵ với sự vô tư của đồng bào
mình. Nhìn các loại hoa quả, rau tươi, màu sắc rực rỡ, những con gà vàng ngậy
bày bán ở mọi nơi, tôi luôn tỏ ra e ngại. Trong khi tôi chỉ thích ăn cơm nhà
thì mọi người quanh tôi rất hay ăn ngoài. Thỉnh thoảng họ xách về mấy túi
nylon, nào là bún, canh, thịt quay, rau thơm, nước chấm... Thế là thành bữa
liên hoan khỏi mất công nấu. Mọi người đều vui vẻ, riêng thằng "gà công
nghiệp" là hoang mang, chỉ nhìn đống túi nylon đã no.
Về Sài Gòn tôi hay đi bộ hoặc xe đạp. Khi đi bộ
khổ nhất là không có vỉa hè nên hay phải tạt xuống đường. Để tránh bị xe máy quệt
phải từ sau lưng, tôi luôn đi bộ ngược chiều xe chạy. Vậy mà đã hơn một lần,
tôi bị xe máy tạt phải từ phía sau. May là dân chạy sai chiều không dám phóng
nhanh và sau khi va quệt tôi còn được xin lỗi.
Tôi mua một chiếc xe đạp có 7 số nên đi lại
khá thuận tiện, nhiều khi không kém gì xe máy. Để tránh bị xe máy từ phía sau vọt
qua lỡ mắc phải ghi đông hoặc gương chiếu hậu, tôi phải đi sát lề đường. Đối thủ
bất ngờ vẫn là các vị xe máy đi ngược chiều hoặc những chiếc nắp cống bê tông
nhô lên khỏi mặt đường, trong khi mặt đường thành vỉa hè đi bộ.
Vỉa hè ở Việt Nam có lẽ không còn tồn tại nữa.
Từ Hà Nội, Sài Gòn, Tuyên Quang, Đồng Hới, Ba Đồn, Trà Vinh…, những nơi tôi đi
qua, đều như vậy. Ở những khu phố cũ xây từ thời Pháp hay trước 1975, vỉa hè được
xây dựng có quy hoạch, tương đối rộng và bằng phắng. Nhưng chính vì vậy mà
chúng bị „tư nhân hóa“ làm chỗ ngồi cho quán ăn, làm nơi để tủ hàng hóa, chỗ rửa
xe máy… và phổ biến nhất là chỗ để xe. Tây ba lô thấy fun nhất là khi tắc đường
thì xe máy có quyền chạy trên vỉa hè.
Thiên đường này của xe máy chấm dứt ở các khu
phố mới được cơi nới ra. Ở đây không có vỉa hè bằng phẳng nữa. Mỗi nhà có quyền
xây vỉa hè theo kiểu của mình, với các độ cao, độ dốc khác nhau. Trên đó thường
là các thùng styropor đựng rác hay các chậu trồng cây, thậm chí cả bồn trồng
cây ăn quả bằng bê-tông, rất ngạo nghễ.
Nếu kể lể mọi nỗi bất an trong ăn uống, về ô
nhiễm nguồn nước, không khí, tiếng ồn, về giao thông...thì đúng là „Biết rồi,
khổ lắm, nói mãi“. 40 năm qua, đất nước này vẫn sản sinh thêm 40 triệu dân [1],
có sao đâu!
(còn tiếp)
---
[1] https://www.populationpyramid.net/viet-nam/1982/
.
*****
Cảm
nhận quê nhà (2) – Chuyện cái vỉa hè
(tiếp theo)
Hàng ngày tôi đi qua mấy cái khẩu hiệu to lừng
lững treo ngang trên những con phố nhỏ với dòng chữ: „Nhân dân khu phố... quyết
tâm giữ vững danh hiệu khu phố văn hóa“. Khi phải chịu đựng giọng ca karaoke chấn
động lòng người, ngửi mùi khói khét lẹt do đốt vàng mã, phải tránh những xác
chuột khô đét trên mặt đường, tôi không thấy được cái quyết tâm được phô rất tốn
kém đó. Chỉ thấy đám chuột hoan hỷ quần đảo trong các hộp đựng rác styropor
không có nắp bên vệ đường, trong khi công nghiệp nhựa Việt Nam thừa sức cung cấp
hàng triệu thùng rác có nắp, với giá thành rẻ hơn tiền thuốc chuột mỗi gia đình
bỏ ra cả năm.
Hàng năm ngành xuất bản bán 3.000 tỷ đồng ấn
phẩm văn hóa. Chia cho gần 100 triệu dân thì mỗi người mua 30.000 đồng sách
báo. Trong khi đó trung bình mỗi gia đình trong số 25 triệu hộ đốt 120.000 đồng
vàng mã/năm để mong cho gia tiên được mặc quần áo đẹp, đươc cưỡi ô-tô, được
chơi iPhone nơi chín suối. (FB Ngô
Thái Bình). Đó là chưa kể tiền làm các loại cổng chào để giữ vững danh hiệu
văn hóa.
Cái vỉa hè tự xây, bị chiếm dụng, những xác
chuột trên đường, khói vàng mã quyện trong âm hưởng karaoke… không chỉ nói lên
ý thức của người dân, mà là biểu hiện của một chính quyền thờ ơ, buông lỏng,
không có kỷ cương. Gã khổng lồ Google Map đã chới với khi vào Việt Nam vì nạn
loạn số nhà, loạn tên phố. Riêng vùng tôi ở có đến 3 „Đường 53“. Không biết bao
giờ mã vùng (ZIP-Code), vốn đã có từ lâu, mới được sử dụng chính thức để các chị
bưu tá, các chú Grab đỡ khổ?
Ông Lê Văn Hiến, một trí thức cách mạng lão
thành, bộ trưởng Bộ Tài chính từ năm 1946, tác giả cuốn „Ngục Kontum“[1] có cô
cháu ngoại từng là hàng xóm của tôi ở Hà Nội. Giờ đây cô đang ở trong tòa biệt
thự mà Nhà nước phân cho ông ngoại, cùng nhiều hộ khác. Từ năm 2011 tòa biệt thự
này đã lên báo nhiều lần vì cô tố cáo các hành vi xây dựng trái phép làm hỏng
ngôi nhà[2]. Cho đến nay những vi phạm đó vẫn không thể chấm dứt được vì luôn
có người che đỡ. Hồi trẻ tôi hay sang đây chơi nên vẫn còn nhớ tòa nhà đẹp, có
mảnh vườn rộng ở phố Tông Đản. Tháng trước tôi đi xe máy qua và bị sốc vì tòa
nhà xuống cấp thảm hại, lại còn bị bao quanh bởi một loạt nhà hàng cơi nới ra.
Mảnh vườn đẹp đã biến mất.
Cô cháu than thở: Cung cách quản lý bần cố
nông là vậy!
Vốn quý trọng bác Hiến, tôi thầm hỏi: Bác có
biết rằng hy sinh của bác đã để lại nền quản lý bần cố nông đang đè nặng lên thế
hệ con cháu?
Số phận của ngôi biệt thự nói trên trong hàng
ngàn, hàng vạn trường hợp chỉ là một ví dụ cho vấn nạn loạn xây cất, loạn quy
hoạch….
Trước kia, người ta đổ tội phá nát kiến trúc
đô thị cho sự ấu trĩ, cho nhu cầu cấp bách phải đưa nhiều cán bộ từ nông thôn về
tiếp quản thành phố trong điều kiện nọ kia. Nhưng ngày nay, khi xã hội đã phát
triển hơn, nhiều gia đình đã khá giả mà nếp quản lý vẫn như cũ.
Việt Nam có vô vàn ngôi nhà hộp. Chúng chỉ rộng
3-4 mét mặt tiền, sâu khoảng 20-25m, tối hun hút nhưng cao đến 5-6 tầng. Trên
những lô đất nhỏ như vậy, chỉ có xây nhà hộp mỏng tanh, xây sát ranh giới thì mới
đủ diện tích để ở và cho thuê cửa hàng. Sau lưng cũng là mảnh đất hẹp và nông
như vậy, nhìn ra mặt phố song song. Mảnh đất đó cũng được chủ nhà xây nhà hộp
sát đến ranh giới, đến nỗi hai nhà đấu lưng vào nhau, không còn chỗ mở cửa sổ
sau cho gió lùa vào. Máy lạnh của hai nhà thổi gió nóng và bắn tiếng ồn sang
nhau.
Tôi hỏi một ông cán bộ: Tại sao khoanh lô đất
nhỏ tý như vậy để bán cho người có tiền xây nhà? Tại sao không phân mặt tiền rộng
ra 5-6m để khỏi phải nhô cao? Tại sao không chia các mảnh đất sâu 40-50 m để
còn có vườn phía sau, để tránh cảnh nhà dựa lưng vào nhau, để còn có chỗ đỗ xe
phía trước? Từ 130 năm trước Pháp đã làm như vậy mà.
Ông nói vòng vèo một lúc nhưng đại ý là: Để
đáp ứng nhu cầu dân số đô thị tăng nhanh, để nhiều người có điều kiện xây nhà,
rằng phân lô kiểu Tây chỉ giúp một số giàu hơn (tư sản) được xây nhà riêng.
Thì ra mấy ông tư bản mới vẫn quản lý theo kiểu
cào bằng như thời bần cố nông. Ngày xưa cào bằng để tất cả cùng nghèo, nay cào
bằng để người có tiền cùng được hưởng sự khó chịu của nhau, không ai khá lên được.
Chỉ cần đi vài trăm mét từ nhà tôi sang Phú Mỹ
Hưng, nơi được „Tây“ quy hoạch, mọi việc lại khác hẳn. Ở đó vỉa hè ra vỉa hè,
nhà có vườn, không gian có chỗ thở, cột điện không có giàn cáp leo, mặt đường
không có xác chuột…. Trong khung cảnh như vậy chắc chắn không ai dám hát
karaoke vào nửa đêm hay đem rác đổ ra đường.
Phát triển theo hướng chất lượng cao „Quý hồ
tinh bất quý hồ đa“, không cào bằng, không úi xùi ắt tạo ra sự sàng lọc và kiểm
soát, tránh được bần cùng hóa giới trung lưu. Ngoài việc nâng cao ý thức công
dân, nó còn giúp giảm tốc độ đô thị hóa, không lôi kéo người nông thôn đổ xô ra
thành thị. Hàng trăm ngàn người sống sót sau vụ Covid năm ngoái rời bỏ các khu ổ
chuột ở thành thị chạy về quê là thất bại của chính sách đô thị hóa nông cạn. Tốc
độ đô thị hóa không phải là chỉ số quyết định cho trình độ phát triển!
Tuy đô thị chất lượng cao đắt tiền hơn nhưng
chắc chắn sống lâu hơn. Con cháu chúng ta, sau khi được mở mang tầm mắt, được
khai sáng sẽ không chấp nhận những đường phố không có vỉa hè, sẽ không chịu đi
bộ xuống lòng đường. Chúng sẽ không ở trong những ngôi nhà hộp bị bịt cửa sổ
phía sau, sẽ không chịu dùng nước máy được hứng vào bể ngầm rồi bơm lên những
thùng nhôm trên nóc nhà v.v. Khi đó chỉ có cách đập đi xây lại cả một khu phố.
Hàng ngàn tỷ USD của nhiều thế hệ chắt cóp sẽ biến mất. Rẻ hóa đắt.
Tâm lý ham rẻ để phát triển nhanh, theo chiều
rộng của ông cán bộ nọ không chỉ ngự trị trong quy hoạch đô thị mà trong mọi hoạt
động kinh tế.
Cơn sốt công nghiệp rẻ tiền từng tàn phá đất
nước này, khi các tỉnh đua nhau nhập về theo hàng loạt nhà máy đường, nhà máy
xi măng, xưởng đúc thép từ Trung Quốc để rồi tất cả đều nằm đắp chiếu. Cơn sốt
đó được nối tiếp bằng cơn sốt thủy điện. Khắp nơi mọc lên các nhà máy thủy điện
nhỏ, rẻ tiền, với cái giá vô cùng đắt cho thiên nhiên. Và cho cả mạng sống của
người dân ở phía dưới chân đập.
Tôi không phủ nhận những bước tiến mà Việt Nam
đạt được trong „Xóa đói giảm nghèo“. Đường xá, điện lực và viễn thông vươn đến
phần lớn nông thôn khiến đời sống nông dân được cải thiện đáng kể. Nhưng xóa
đói dẫn đến tàn phá thiên nhiên là những bước tiến không thể khích lệ.
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, trước năm 1945 Việt
Nam có 14 triệu ha rừng. Sau 30 năm chiến tranh, diện tích rừng năm 1975 chỉ
còn 9,5 triệu ha. 14 năm hòa bình trong chế độ bao cấp đã thiêu hủy thêm 3 triệu
ha, năm 1989 chỉ còn 6,5 triệu ha [3].
Từ khi đổi mới kinh tế, nhà nước giao đất rừng
cho nông dân để xóa đói giảm nghèo và phủ xanh diện tích rừng. Thiếu hiểu biết
về phát triển bền vững, ham bóc ngắn cắn dài, chính quyền đã khuyến khích hàng
triệu nông dân trồng các loại cây công nghiêp, mà tệ hại nhất là cây keo để làm
bột giấy.
Cây keo tuy chỉ cho 25-30 triệu đồng/ha/năm,
nhưng sau 4-5 năm là nông dân có thu hoạch, sản phẩm được công nghiệp giấy bao
tiêu ngay. Nếu mỗi gia đình được phân 4-5 ha để trồng keo, thì năm nào cũng đảm
bảo có thu nhập ổn định, tuy chỉ hơn 2 triệu đồng/tháng, đủ để không chết đói.
Vì vậy nông dân đua nhau phá rừng tự nhiên để trồng keo, tăng thu nhập.
Hậu quả là vô vàn cánh rừng tự nhiên bị đốt để
trồng keo. Rừng keo phủ đến đâu, đa dạng sinh học biến mất đến đó. Chim, ong,
bướm, côn trùng bỏ đi, đất bị xói mòn, bị bạc màu. Không có thảm thực vật giữ
nước nên lũ lụt, hạn hán đe dọa cuộc sống ở dưới đồng bằng.
Trồng rừng đơn canh là cách hủy họai thiên
nhiên nguy hiểm nhất. Nó nguy hiểm vì người dân nghĩ rằng mình đang trồng rừng,
đang hỗ trợ công nghiệp và đang tự nuôi sống mình. Chính quyền thì có cách đề
cao thành tích xóa đói giảm nghèo.
Nhiều nông dân hiểu rõ tác hại của „cơn sốt
keo“. Nhưng nếu gõ từ „cây keo“ trên Google, sẽ chỉ thấy các bài viết ca ngợi
cây leo. Vậy nên trong 3,9 triệu ha trồng rừng mới, có đến 2,2 triệu ha keo
lai!
Những người quyết vượt khó, trồng vườn rừng tự
nhiên, hợp thổ nhưỡng, bảo vệ môi sinh luôn bị cô đơn.
Cái vỉa hè bị chiếm dụng, khấp khểnh theo từng
mặt tiền không chỉ là chuyện của phố tôi. Nó là hình ảnh ngự trị trong mọi lĩnh
vực của xã hội, là hậu quả của nền quản lý lạc hậu.
(Còn tiếp)
-----
[1] https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_V%C4%83n_Hi%E1%BA%BFn
[2] https://dantri.com.vn/.../van-phong-chinh-phu-thuc-xu-ly...
[3] https://tongcuclamnghiep.gov.vn/.../tai-nguyen-rung-viet...
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=8998625833488743&set=pcb.8998652010152792
Khẩu hiệu này đi đâu cũng thấy.
https://www.facebook.com/photo?fbid=8998625840155409&set=pcb.8998652010152792
Biệt thự 11a
Tông Đản, Hà Nội chỉ còn lấp ló sau những cơi nới vây quanh.
https://www.facebook.com/photo?fbid=8998633710154622&set=pcb.8998652010152792
Vỉa hè
"tự phát", mạnh ai nấy làm.
No comments:
Post a Comment