Trung
Quốc và chiến lược «Phương Nam» nhằm kềm hãm Hoa Kỳ
Minh
Anh - RFI
Đăng
ngày: 23/06/2022 - 14:35
Để đạt
được mục tiêu trở thành trung tâm thế giới, các lãnh đạo Trung Quốc từ một thập
kỷ qua ra sức củng cố sức mạnh kinh tế, chính trị, ngoại giao và quân sự của đất
nước. Nhưng mong muốn đi lên thành siêu cường hàng đầu thế giới của Bắc Kinh đi
kèm với một hệ lụy khó giải quyết : Buộc phải ngăn chặn những nỗ lực của
phương Tây muốn kềm hãm Trung Quốc.
Ảnh
tư liêu: Tại Diễn đàn Hợp tác Trung Quốc - Châu Phi, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình cam kết tài trợ 60 tỷ đô la cho các dự án ở châu Phi, Bắc Kinh, ngày
04/09/2018. AP - Andy Wong
Trong sách
lược khẳng định vị thế thống trị, Trung Quốc cho rằng cần phải thiết lập một
vùng ảnh hưởng, không chỉ ở những khu vực tiếp giáp liền kề mà còn phải bao gồm
toàn bộ các nước mới trỗi dậy, không thuộc phương Tây và phần lớn phi dân chủ -
tức các nước phương Nam (The Global South). Việc bảo đảm sự thống thị đối với
nhóm đông đảo các quốc gia này cho phép tạo một cơ sở vững chắc cho sức mạnh
Trung Quốc, đồng thời hạn chế được các ảnh hưởng cũng như hành động của Hoa Kỳ
và cuối cùng, cho phép đặt dấu chấm hết cho thế bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Cụ thể
sách lược này nói gì ?RFI Tiếng Việt xin giới thiệu tóm tắt một số điểm
trong bài phân tích có tựa đề « Chiến lược phương Nam của Trung Quốc »
của nhà nghiên cứu Nadège Rolland đăng trên Foreign Affairs ngày 09/06/2022.
***
Học thuyết « Ba thế giới »
Thế giới
đang phát triển luôn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Ngay từ những ngày đầu mới lập quốc, chiến lược « Phương Nam – Global
South » để chống cường quốc đế quốc đã được Mao Trạch Đông hoàn thiện
(1949 – 1974) khi đưa ra lý thuyết « Ba thế giới ». Theo đó,
có một mặt trận thống nhất, tập hợp các quốc gia từ châu Phi, châu Á đến châu Mỹ
La-tinh, tạo thành Thế Giới Thứ Ba, trong cuộc chiến chung chống Thế Giới Thứ
Nhất – bao gồm đế quốc Mỹ và Liên Xô (sau khi Trung – Xô đoạn tuyệt bang giao).
Cùng lúc, Trung Quốc tranh giành và vô hiệu hóa Thế Giới Thứ Hai gồm các cường
quốc hạng trung như Úc, Canada, Nhật Bản và các nước Tây Âu.
Mao tin rằng
một mặt trận thống nhất các nước đang phát triển do Trung Quốc lãnh đạo có thể bao
vây và cô lập các cường quốc bá quyền, theo như cách thức đảng Cộng sản Trung
Quốc từng thực hiện trong những năm đầu đấu tranh chính trị « lấy nông
thôn bao vây thành thị» (theo như lời của Mao), tạo điều kiện
thắng lợi cho cuộc cách mạng cộng sản. Trong mục tiêu này, Bắc Kinh đã hỗ trợ kỹ
thuật và tài chính cho các phong trào cách mạng giải phóng, và chống thực dân ở
các nước Thế Giới Thứ Ba.
Nhưng những
bất ổn trong nước và các hạn chế về kinh tế buộc Trung Quốc phải tạm gác sang một
bên tham vọng to lớn đó. Trong nhiều thập niên, từ thời Đặng Tiểu Bình cho đến
các đời lãnh đạo trước khi Tập Cận Bình lên cầm quyền đã tập trung ưu tiên phát
triển sức mạnh quốc gia. Dù vậy, các nước đang phát triển vẫn luôn có một tầm
quan trọng đối với Trung Quốc vì nhiều lý do khác nhau về hệ tư tưởng và địa
chiến lược.
Đó là những
nguồn cung năng lượng và tài nguyên thiên thiết yếu, là những nguồn cung thị
trường mới cho các doanh nghiệp, giúp Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ về mặt kinh tế.
Do vậy, Đại hội Đảng Công Sản lần thứ 16 năm 2002, chính thức xem các nước đang
phát triển là "nền tảng" ngoại giao cho Trung Quốc – sau các mối
quan hệ của Trung Quốc với các cường quốc và với các nước láng giềng, nhưng trước
cả chính sách của Trung Quốc trong các định chế đa phương.
BRI – Công cụ hữu hiệu cho chính sách
« Phương Nam »
Trung Quốc
ra sức hậu thuẫn các nước đang phát triển để đạt được các mục tiêu địa chính trị
to lớn. Nhờ vào các khoản viện trợ kinh tế và đầu tư to lớn, Trung Quốc đã khiến
các nước phương Nam cắt đứt quan hệ với Đài Loan nhằm bóp nghẹt hòn đảo về mặt
ngoại giao. Khi khơi dậy tư tưởng chung là bài phương Tây đi kèm với những lời
dụ dỗ, Bắc Kinh đã có được những lá phiếu các nước đang phát triển tại Liên Hiệp
Quốc để tránh bị quốc tế lên án về tình trạng vi phạm nhân quyền dai dẳng.
Vào cuối
nhiệm kỳ của ông Hồ Cẩm Đào (2002-2012), Trung Quốc tin rằng đã đi đúng quỹ đạo,
khi qua mặt Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ hai trên thế giới. Đồng thời Bắc
Kinh xem chính sách « xoay trục » sang châu Á của chính quyền Obama
như là một sự gia tăng nỗ lực của Mỹ nhằm hạn chế sức mạnh của Trung Quốc. Vừa
tự tin nhưng cũng vừa lo lắng, giới lãnh đạo Trung Quốc công khai từ bỏ chính
sách « ẩn mình chờ thời » của Đặng Tiểu Bình, để chuyển sang một chiến lược
toàn cầu mới, chủ động đưa Trung Quốc lên thành cường quốc thống trị thế giới.
Khi phác
thảo cách thức thực hiện, tại Trung Quốc, xuất hiện hai xu hướng trong giới
chuyên gia : Phe thứ nhất chủ trương một chiến lược cân bằng, thực hiện
« Tây tiến », đi xuyên Á-Âu để làm đối trọng với việc Hoa Kỳ ngày
càng tập trung các nỗ lực ngoại giao, kinh tế và quân sự trong lĩnh vực hàng hải
ở châu Á. Ngược lại, phe thứ hai khẳng định vùng phương Nam có thể giữ một vai
trò chủ chốt giúp Trung Quốc chống lại đối thủ bá quyền, đặc biệt là khi phương
Tây không quan tâm đến những khu vực vốn có thể sẽ giúp Trung Quốc thực hiện
nhiệm vụ dễ dàng hơn.
Khi đưa ra
phương án thứ hai này, các nhà lý luận của đảng Cộng Sản thời Tập Cận Bình đã
khai quật các khái niệm giải vây do Mao phát triển nhiều thập kỷ trước đó. Giống
như dưới thời Mao, giới chiến lược gia tại Bắc Kinh ngày nay tin rằng việc lãnh
đạo một mặt trận thống nhất các nước phương Nam sẽ giúp làm đối trọng với điều
mà họ cho là những mưu toan của phương Tây nhằm cô lập và ngăn chặn sự trỗi dậy
của Trung Quốc.
Và với
sáng kiến Một vành đai Một con đường (BRI) do Tập Cận Bình chủ xướng, ảnh hưởng
kinh tế của Trung Quốc lan rộng khắp thế giới, từ các đảo quốc Thái Bình Dương
cho đến bờ Đại Tây Dương của châu Phi nhờ vào các cho khoản vay, đầu tư, phát
triển cơ sở hạ tầng và không ngừng mở rộng hợp tác trong một loạt các lĩnh vực.
Kết quả là Bắc Kinh có cả động lực lẫn đòn bẫy tiềm tàng mà họ có thể sử dụng để
tập hợp một liên minh các nước đang phát triển theo hướng có lợi cho mình và chống
lại phương Tây.
Phát huy thế mạnh
Trên bình
diện kinh tế, đầu tư của Trung Quốc vào các nước phương Nam sẽ thúc đẩy sự thịnh
vượng và tăng trưởng kinh tế dài hạn cho nước này. Châu Phi sẽ là nguồn nhu cầu
mới cho các doanh nghiệp Trung Quốc khi nhìn vào triển vọng gia tăng tầng lớp
trung lưu thành thị (ước tính đạt 800 triệu dân trong vòng 15 năm).
Việc hỗ trợ
xây dựng mạng lưới công nghệ thông tin cho phép Trung Quốc sở hữu một nguồn dữ
liệu kỹ thuật số từ nhiều nguồn khách hàng đa dạng và có thể sử dụng chúng để
đào tạo các thuật toán trí thông minh nhân tạo – một bước không thể thiếu để thực
hiện tham vọng dẫn đầu công nghệ thế giới tương lai.
Cuối cùng,
theo như một báo cáo do Cơ quan Nghiên cứu châu Á Quốc gia công bố hồi tháng
5/2022, đầu tư phát triển hạ tầng châu Phi có thể giúp biến lục địa này thành một
nền sản xuất tích hợp chi phí thấp, cho phép các nước tại châu lục đóng một vai
trò « công xưởng » giống như là Trung Quốc đã từng làm cho các nước
phương Tây. Tóm lại, Bắc Kinh hy vọng các nước phương Nam có thể giúp Trung Quốc
giảm phụ thuộc vào các thị trường Hoa Kỳ và châu Âu khi tạo ra một hệ thống
kinh tế phụ có khả năng tồn tại mà không phụ thuộc vào phương Tây.
Các nỗ lực
này của Trung Quốc ở các nước đang phát triển ít nhiều cũng đã gặt hái thành
công, như thúc đẩy các nước phương Nam chối bỏ những điều mà đảng Cộng sản
Trung Quốc cười nhạo : « Các giá trị phổ quát » của
phương Tây. Tại các định chế quốc tế, Trung Quốc đã có được lá phiếu của những
nước phương Nam theo ý muốn của mình trong nhiều vấn đề, kể cả nhân quyền.
Các nền
kinh tế mới trỗi dậy cũng tham gia vào nhiều diễn đàn do Trung Quốc dẫn đầu như
Đối thoại Nam – Nam về Nhân quyền, tán thành các khái niệm do Trung Quốc đưa ra
như « cộng đồng cùng chia sẻ tương lai », tầm nhìn của đảng về một trật
tự thế giới lấy Trung Quốc làm trung tâm, nhắc lại những phát biểu ưa thích của
Bắc Kinh… và tất cả những điều đó đã mang lại cho Trung Quốc nhiều thế mạnh hơn
tại các diễn đàn quốc tế.
Thất bại của
phương Tây cũng khiến các nước đang phát triển thất vọng với mô hình dân chủ tự
do được Mỹ hậu thuẫn mà họ tin rằng đã không thực hiện được lời hứa của mình.
Việc cung cấp không ngừng các chương trình đào tạo giúp Bắc Kinh khuếch trương
mô hình quản lý theo kiểu Trung Quốc. Nhiều quốc gia trong số các nước đang
phát triển có thể sẽ chọn vay mượn các yếu tố của mô hình chuyên chế Nhà nước,
trọng thương và đàn áp từ Trung Quốc. Theo cách này, các nước phương Nam có thể
giúp Trung Quốc đóng vai trò trọng tài phân xử phải trái các vấn đề quốc tế.
Việc mở rộng
ảnh hưởng của Bắc Kinh trong thế giới đang phát triển cũng có thể giúp Trung Quốc
củng cố năng lực triển khai sức mạnh quân sự ra bên ngoài, hoặc tối thiểu là hạn
chế các giải pháp quân sự và quyền tự do hành động của các nước khác. Trung Quốc
luôn thận trọng sử dụng linh hoạt sức mạnh quân sự của mình, và họ coi các hoạt
động quân sự ở bên ngoài như là hệ quả của nhu cầu chính đáng bảo vệ các lợi
ích ngày càng rộng lớn của mình.
?
Dù vậy,
vào năm 2017, Trung Quốc đã cho thiết lập một căn cứ hải quân ở Djibouti, một
nước Đông Phi và đang ấp ủ kế hoạch mở thêm ít nhất một tiền đồn quân sự nước
ngoài khác ở Cam Bốt. Trung Quốc có thể thực hiện các bước tiếp theo để thúc đẩy
sự hiện diện lâu dài của mình gần các chốt nghẽn hàng hải và dọc theo các tuyến
đường biển quan trọng.
--------------------------------
CÁC
NỘI DUNG LIÊN QUAN
Mỹ
đánh giá quá cao quân đội Nga, coi nhẹ quân đội Trung Quốc ?
Nga-Trung
: Cùng chung mục đích nhưng phương cách hành động khác nhau
No comments:
Post a Comment