·
1. Ngày 17/6/2022, một hãng
đấu giá ở Pháp đã đưa ra đấu giá 1 cái chén ngọc (đường kính 14,5 cm; cao 6,2
cm), có khắc 4 chữ triện: 嗣德年造 (Tự Đức niên tạo), thuộc sưu tập của hoàng hậu
Nam Phương trước đây (ảnh 01).
Chiếc bát ngọc này được hãng đấu giá đặt giá
khởi điểm từ 6.000 đến 8.000 euro. Kết quả đã được bán với giá 845.000 euro
(tương đương 20 tỉ đồng Việt Nam), chưa tính thuế.
Cổ vật thời Nguyễn, bất kỳ chất liệu gì, dạo
này được giới sưu tầm cổ vật trong nước và quốc tế đặc biệt quan tâm và mua bán
với giá cao kinh hoàng. Đây là tín hiệu vui cho những nhà sưu tầm đang sở hữu cổ
vật thời Nguyễn.
Nhưng “vui nhất” có lẽ là Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam tại Hà Nội bởi nơi đây đang sở hữu nhiều cổ vật thời Nguyễn giá trị nhất Việt
Nam. Trong đó, sưu tập đồ ngọc là một ví dụ.
2. Dưới đây là trích đoạn viết
về sưu tập đồ ngọc thời Nguyễn trong bài “Lời nói đầu” của cuốn sách CỔ NGỌC VIỆT
NAM, do bảo tàng này xuất bản năm 2011.
“Cổ ngọc thời Lê - Nguyễn là phần chiếm số lượng
lớn nhất trong sưu tập, niên đại tập trung từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
Ngoài phần sưu tầm trước năm 1954 của Bảo tàng
Louis Finot, phần chủ yếu có nguồn gốc từ cung đình Huế. Đây là cổ ngọc nằm
trong số bảo vật triều Nguyễn được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận
sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945. Nhóm cổ ngọc đặc biệt quan trọng là 18 chiếc ngọc
tỷ bao gồm 2 chiếc thuộc thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18); 3 chiếc đời vua Minh Mạng;
3 chiếc đời vua Thiệu Trị; 2 chiếc đời vua Tự Đức; 2 chiếc đời vua Khải Định và
6 chiếc thuộc loại “đồ thư văn bảo” như cách gọi của sách “Khâm định Đại Nam hội
điển sử lệ”. Những ngọc tỷ này được chạm khắc, mài dũa bằng nhiều loại ngọc
khác nhau, với các màu sắc ngọc xanh sẫm, ngọc xanh nhạt hay ngọc trắng.
Ngọc tỷ萬寿无疆 (Vạn thọ vô cương), tương truyền, ngọc tỷ này
do một người dân đào đất tìm được đem dâng lên vua Minh Mạng. Vua cùng triều thần
vô cùng mừng rỡ, lập tức xuống chỉ cho dùng ngọc tỷ này đóng lên các ân chiếu,
cáo văn khánh tiết trong lễ Vạn thọ, lễ mừng thọ nhà vua.
Kể từ năm Ất Mùi (1835), tức là năm Minh Mạng
6 trở về sau, các ngọc tỷ của Hoàng đế Minh Mạng và Thiệu Trị thường thấy ghi
khắc rõ ngày tháng tạo tác như ngọc tỷ: 皇帝之璽璽 (Hoàng đế chi tỷ) tạo năm 1835; 行在之璽 (Hành tại chi tỷ) năm
1837; 大南天子之璽 (Đại Nam thiên tử chi tỷ) năm 1839; 宸翰之璽 (Thần hàn chi tỷ) và大南皇帝之璽 (Đại Nam hoàng đế chi tỷ)
năm 1844; 大南受天永命傳国璽 (Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ) năm 1846. Dưới đời vua Tự
Đức còn 2 ngọc tỷ là 嗣德宸奎 (Tự Đức thần khuê) và 嗣德宸翰 (Tự Đức thần hàn), đều được tạo tác trong khoảng
1848 - 1883. Dưới đời vua Khải Định cũng còn 2 ngọc tỷ là 啟定皇帝玉璽 (Khải Định hoàng đế ngọc
tỷ) và 啟定皇帝之璽 (Khải Định hoàng đế chi tỷ), đều được tạo tác trong khoảng 1916 -
1925.
Nhiều câu chuyện trong sử cũ còn lưu truyền về
việc người dân tìm được ngọc quý dâng lên nhà vua như năm 1837, có người dâng
viên ngọc trắng lên vua Minh Mạng, nhà vua sai làm ngọc tỷ 行在之璽 (Hành tại chi tỷ). Năm
Minh Mạng 20 (1839), đúng khi vương triều đổi quốc hiệu là Đại Nam, lại có người
dân dâng ngọc quý, nhà vua liền ra lệnh cho khắc ngọc tỷ: 大南天子之璽 (Đại Nam thiên tử chi tỷ).
Năm 1844, vua Thiệu Trị nhận được từ người dân dâng lên 2 viên ngọc quý, nhà
vua liền ra lệnh khắc 2 ngọc tỷ, hoàn thành ngay trong năm ấy, là ngọc tỷ 宸翰之璽 (Thần hàn chi tỷ) và 大南皇帝之璽 (Đại Nam hoàng đế chi tỷ).
Đặc biệt là vào năm Thiệu Trị 6, 1846, có người
dâng lên vua một viên ngọc cực lớn, vốn là sản vật của núi ngọc huyện Hoà Điền
vùng đất Quảng Nam. Nhà vua vô cùng mừng rỡ liền sai quan Hữu tư dũa mài thành
ngọc tỷ, một năm sau thì xong. Đó là ngọc tỷ 大南受天永命傳国璽 (Đại Nam thụ thiên vĩnh
mệnh truyền quốc tỷ).
Như thế, những ngọc tỷ nêu trên chẳng những là
những bảo vật truyền quốc mà còn khẳng định nguyên liệu ngọc quý đã tìm được ở
Việt Nam và kỹ thuật tạo tác do chính những nghệ nhân cung đình Huế dưới triều
Nguyễn thực hiện.
Trong sưu tập bảo vật triều Nguyễn còn có nhiều
loại hình đáng chú ý khác, phản ánh kỹ thuật tạo tác tinh tế, không chỉ đồ ngọc
mà còn thể hiện sự tài khéo kết hợp giữa ngọc với vàng, bạc, đồi mồi, ...
Bảo kiếm của vua, cùng với “kim ngọc bảo tỷ”
là biểu trưng cao quý nhất quyền lực quốc gia. Chuôi kiếm được tạo từ ngọc trắng
xanh, cùng với vàng chạm, đúc hình rồng mây rất tinh xảo. Bốn chiếc vương miện
của hoàng đế triều Nguyễn mà Bảo tàng Lịch sử Việt Nam mới phục hồi cũng là
minh chứng sinh động về việc sử dụng ngọc trang trí trên mũ. Những đài thờ, chậu
ngọc cũng là loại vật dụng điển hình của cung đình Huế. Chẳng hạn chậu ngọc trắng
xanh, miệng loe bịt vàng, trang trí nổi hình 2 con dơi ngậm chữ Thọ tròn, trên
nền mạng kim quy cẩn đá nhiều màu. Chậu ngọc xanh xám sẫm, 4 chân thấp, khắc
hoa sen dây, miệng loe bịt vàng, cẩn đá các loại trên nền chữ Vạn và mạng kim
quy.
Những chiếc thẻ như ý trắng xám, không chỉ là
vật trang trí mà còn là vật biểu trưng quyền quý nơi hoàng cung được tạo tác hình
lá đề, hoa sen và cây cỏ tự nhiên hay hình con dơi và song ngư, con dơi ngậm đồng
tiền và dòng chữ nổi: 吉祥如意 (Cát tường như ý).
Phiến ngọc 御延文寶 (Ngự diên văn bảo) hình
chữ nhật có diềm khung nổi chạm hồi văn chữ S đầu vuông. Phiến ngọc tạo bằng ngọc
trắng xám, diềm 4 góc và xung quanh chạm hình bướm và hoa dây. Trong diềm chạm
2 hình rồng uốn mình, đầu ngẩng cao chầu viên bảo ngọc, trên nền mây. Kiểu rồng
đuôi xoáy này rất phổ biến trong nghệ thuật Nguyễn. Chính giữa phiến ngọc khắc
nổi 4 chữ triện: 御延文寶 (Ngự diên văn bảo). Phiến ngọc này hẳn đã được dùng đặt ở nơi Văn thư
phòng - là nơi cơ mật của vua nhà Nguyễn.
Đáng chú ý trong sưu tập bảo vật triều Nguyễn
còn có nhóm cổ ngọc thuộc Văn phòng tứ bảo là những vật biểu trưng cho sự sang
trọng, tao nhã của bậc quyền quý.
Đáng kể nhất là những chiếc nghiên ngọc dùng để
mài mực, mài son của vua và quan lại. Chất liệu ngọc dùng chế tác nghiên là loại
ngọc xanh ghi, ngọc trắng và ngọc điểm vân xanh. Trong số những nghiên ngọc
này, 4 chiếc có minh văn khắc trên vỏ hộp đựng nghiên hay khắc trực tiếp lên nắp
nghiên (loại nghiên hộp, gồm 2 nửa khớp lại). Minh văn cho biết chiếc nghiên thứ
nhất tạo tác vào năm Tân Sửu, năm đầu niên hiệu Thiệu Trị (1841) với dòng chữ
Hán: 御 製硃硯詩一首 (Ngự chế châu nghiễn thi nhất thủ).
Chiếc nghiên thứ 2, tạo vào năm Bính Ngọ, năm
Thiệu Trị 6 (1846). Nghiên cũng khắc bài thơ ngự chế thất ngôn tứ tuyệt của nhà
vua với dòng chữ Hán: 御 製墨硯詩一首 (Ngự chế mặc nghiễn thi nhất thủ).
Trên mặt cả 2 chiếc nghiên này đều khắc ô chứa
mực hình bông hoa 4 cánh và xung quanh là 2 hình rồng chầu viên ngọc châu trên
nền mây cuộn.
Chiếc thứ 3 và thứ 4, là loại nghiên hộp, hình
khối hộp chữ nhật, kích thước và màu sắc giống nhau, thời gian khắc tạo nghiên
là năm Thiệu Trị 7 (1847). Trên mặt 2 chiếc nghiên cũng có khắc 2 bài thơ ngự
chế thất ngôn tứ tuyệt vịnh về 右墨硯 (Hữu mặc nghiễn) và 右硃硯 (Hữu châu nghiễn).
Trên mặt nghiên mài mực nho, khắc ô chứa mực
hình bông hoa 4 cánh, xung quanh là cành hoa lá phật thủ. Trên mặt nghiên mài
son, khắc chứa mực hình bông hoa 4 cánh tương tự nhưng xung quanh là cành hoa
lá quả đào và hình con dơi ở góc, theo đề tài Phúc - Thọ.
Như vậy, với 4 chiếc nghiên trên đây, chúng ta
biết được 4 bài Ngự chế thi của vua Thiệu Trị với thời gian cụ thể vào các năm
1841, 1846 và 1847.
Theo tài liệu thống kê qua 10 tác phẩm còn để
lại của vua Thiệu Trị cho thấy nhà vua đã làm khoảng 4000 bài thơ đủ các thể loại
và hàng trăm bài văn xuôi dài ngắn khác nhau.
Không biết rằng có bao nhiêu bài thơ, bài văn
của vua Thiệu Trị trong số đó đã ra đời từ những chiếc mặc nghiễn, châu nghiễn
quý hiếm này?
Ngoài 4 chiếc nghiên ngọc trên đây còn có những
chiếc nghiên đặt trong hộp đồng có khắc chữ 御筵硃硯 (Ngự diên châu nghiễn)
và 御筵墨硯 (Ngự diên mặc nghiễn). Hai chiếc nghiên trong hộp này hình khối hộp chữ
nhật, tạo bằng ngọc trắng xanh và trắng xám vân xanh. Mặt nghiên chạm ô chứa mực
bao quanh là hai hình con dơi (song phúc) hay ô hình bán nguyệt. Dẫu không có
căn cứ xác định nghiên tạo tác vào tháng năm nào cụ thể nhưng chắc chắn đây là
2 chiếc nghiên mài mực nho và mài son của hoàng đế nhà Nguyễn.
Những chiếc nghiên khác có hình khối hộp chữ
nhật tạo bằng ngọc màu xanh ghi, chạm khắc hình rồng phun nước trong ô chứa mực
hay khắc hình mây cuộn và 2 hình cá nhô đầu trên sóng nước. Có 2 chiếc nghiên hộp
khác bằng ngọc trắng tạo theo cành hoa lá quả phật thủ hay cành hoa lá quả đào
và hình con dơi, gồm 2 phần lắp khớp lại, và đều đặt trong vỏ hộp đồng tạo theo
hình dáng của chiếc nghiên.
Nghiên mài mực còn được tạo tác bằng loại đá
màu nâu và trắng xám. Ở ô chứa mực chạm nổi hình Ngư long hý thủy. Cùng chất liệu
ngọc này còn có chiếc nghiên tạo theo hình lá sen với các đường gân rất tỷ mỷ.
Ngoài ra, nhóm nghiên mực còn có loại nghiên
ngọc trắng tạo hình bầu dục, mặt trên khắc hình chim phượng xoè cánh. Nghiên ngọc
màu trắng xanh điểm vân xanh tạo hình theo chiếc lá đào, lưng có gân lá. Mặt
nghiên khắc ô chứa mực hình bông hoa 4 cánh.
Trong thành phần của bộ Văn phòng tứ bảo còn
có các loại hình khác như gác bút, thủy trì, hộp các loại, ống bút, quản bút,
...
Gác bút ngọc trắng xám được tạo theo 2 hình rồng
uốn khúc, ngẩng đầu chầu vào viên ngọc châu ở chính giữa. Các hình văn mây cuộn,
đuôi rồng xoáy như đã tạo thành một nét riêng biệt trên đồ ngọc cung đình Huế.
Cùng loại ngọc trắng xám còn thấy gác bút tạo hình tam sơn, chạm khắc 2 mặt với
đề tài chim phượng và cây ngô đồng bên núi và cây tùng với chim hạc. Cũng có
chiếc gác bút ngọc trắng xám chạm khắc 2 mặt đề tài cây tùng - liễu và phong cảnh
lão tiên với tiểu đồng dưới gốc tùng.
Thủy trì là tên thường gọi với loại đồ đựng nước
rửa bút và có nhiều kiểu dáng khác nhau. Ở đây, thủy trì ngọc trắng xám tạo
hình chiếc cốc, gờ miệng chạm 2 hình con dơi xoè cánh xen kẽ các dải mây cuốn,
xung quanh thân khắc các lớp sóng. Chân đế uốn, khắc băng văn như ý. Chiếc thủy
trì khác tạo bằng ngọc trắng theo hình quả đào, bên thành ngoài có cành lá đào
cùng hình tượng khỉ và dơi.
Lại có chiếc thủy trì ngọc trắng tạo theo hình
lá sen uốn rất độc đáo, trong lòng chạm nổi 2 bông hoa mai. Chiếc thủy trì ngọc
trắng, tạo hình quả cam, nắp làm bằng vàng chỏm núm tròn đính hạt ngọc, cao cả
nắp 4,7 cm, đường kính miệng 2,0 cm.
Chiếc thủy trì ngọc trắng khác tạo hình hộp quả
đào, chia 2 nửa. Trên mặt nắp thủy trì chạm khắc cành lá đào và một con dơi. Quả
đào là biểu tượng cho sự trường thọ như trong huyền thoại đào tiên của Tây
Vương Mẫu, còn hình con dơi tượng trưng cho phúc. Do vậy, có thể nói đề tài
Phúc - Thọ đã chi phối khá nhiều trong ý đồ tạo tác và trang trí của các nghệ
nhân cung đình Huế.
Theo cách phân loại loại hình, hộp ngọc trong
sưu tập này có nhiều dạng như hộp tròn dẹt có 2 nửa lắp khớp lại (tương tự nhiều
loại hộp gốm men đã gặp từ thế kỷ 15 - 16), hộp hình trụ dẹt, hộp hình khối
vuông, khối chữ nhật. Chất liệu tạo hộp bằng ngọc xanh xám sẫm hay bằng ngọc trắng
xám. Sự khác nhau chính là hình chạm trên mặt nắp hộp hay xung quanh thân. Đề
tài trang trí có thể là chữ Thọ kiểu tròn, hình hổ phù phỏng theo đồ đồng cổ Ân
- Thương, hoa lá cúc, chữ S đầu vuông, hoa sen dây. Cũng có khi, đề tài chạm
hình “viên long”, sóng nước, phượng và mây, hình 2 con dơi chầu vào chữ Thọ
hình bầu dục...
Công dụng của các loại hộp này có thể dùng đựng
son phấn hay đồ nữ trang của các bà hoàng, hay đựng mực thỏi, son mài của các tầng
lớp vua quan nhà Nguyễn.
Bộ đồ ăn trầu trang trí phượng có thể xem là một
nhóm cổ ngọc hết sức đặc sắc. Theo nguồn gốc ghi trong sưu tập, bộ đồ trầu gồm
có 1 khay, 1 ống nhổ và 2 chiếc hộp. Tất cả đều chế bằng loại ngọc trắng xanh
và ngọc xanh celadon có kết hợp với vàng và đồi mồi.
Khay trầu hình vuông, 4 mặt chạm khắc giống
nhau, thành bên trong lót đồi mồi, thành ngoài chạm khắc 2 chim phượng chầu mặt
nguyệt, xung quanh diềm hoa chanh, 3 hình con dơi và hoa lá. Gờ miệng khay bịt
vàng. 4 góc chạm hình phượng đứng bằng vàng, cẩn hạt đá sapphire. Đáy khay bằng
gỗ mun.
Chiếc ống nhổ tạo như chiếc bình miệng loe cổ
cao, thân hình cầu, chân đế thấp, viền miệng bịt vàng. Mặt trong miệng và xung
quanh thân chạm 8 hình chim phượng trong ô hình bầu dục, viền quanh còn có băng
lông công, vòng tròn nhỏ và 2 băng văn như ý.
Hai chiếc hộp đựng trầu cau, hình trụ có nắp
và một ngăn giữa tương tự kiểu dáng các hộp trầu bằng vàng, bạc, đồng hay hộp
trầu sứ hoa lam Huế. Kích thước 2 chiếc hộp khác nhau, 1 to và 1 nhỏ, nhưng
trang trí tương tự nhau. Mặt nắp hộp dẹt chạm 2 hình phượng và mây. Riêng nắp hộp
to có núm hình nụ hoa bằng vàng gắn hạt sapphire ở giữa. Xung quanh nắp khắc bầu
rượu, xênh, khánh ngọc theo đề tài bát bảo của đạo Lão. Xung quanh thành ngoài
hộp chạm 3 hình chim phượng bay và mây xen kẽ 3 cành hoa lá cúc.
Nếu giả thiết rằng, trang trí hình chim phượng
trên các đồ vật thuộc về Hoàng hậu thì chắc hẳn bộ đồ ăn trầu hiếm quý này đã
được dùng trong phủ của các bà thuộc Hoàng cung triều Nguyễn?
Thẻ ngọc 御前敕命 (Ngự tiền sắc mệnh) và 紹治萬歲 (Thiệu Trị vạn tuế) là những thẻ hết sức đặc biệt. Trên 2 mặt thẻ Ngự
tiền sắc mệnh, có diềm khắc 2 hình rồng đuôi xoè; trên mặt cán khắc năm Thiệu
Trị 5 (1845). 4 chữ Ngự tiền sắc mệnh khắc trên 2 mặt đều thếp vàng. Đây là mệnh
lệnh bằng văn bản của vua ban cho những người rất thân cận trực bên cạnh vua.
Cho nên, thẻ này là một bảo vật vô cùng quan trọng. Một thẻ ngọc trắng khác nhỏ
hơn, phần trên chạm 2 hình rồng cách điệu, phần dưới hình chữ nhật, trên mặt thẻ
khắc 3 dòng chữ Hán. Đây chính là thẻ ngọc quý đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847).
Hai chiếc thẻ đeo tạo bằng ngọc trắng xám, có
quai đeo hình khánh xuyên lỗ. Thẻ hình chữ nhật dài, một mặt khắc diềm hồi văn
chữ T, một mặt khắc hai hình rồng đuôi xoáy, chầu mặt nguyệt.
Quản bút ngọc trắng xám, hình trụ chạm khắc đầu
rồng, phong cảnh sơn thủy, lầu đài, nhân vật.
Vật trang trí là miếng ngọc dùng để đeo. Ở đây
có vật trang trí hình tròn dẹt chạm thủng hình chim, hoa, chế tạo bằng ngọc trắng
xanh hay miếng ngọc đỏ hình bầu dục dẹt chạm hình con dơi và chữ Thọ theo đề
tài Phúc - Thọ.
Đồ ngọc gia dụng có xuất xứ từ cung đình Huế
còn thấy các loại khác như: cặp kính có gọng bằng ngọc trắng và vàng, 2 mắt
kính tròn. Thước kẻ hình chữ nhật dẹt. Bộ đồ ăn có các loại đũa, thìa, dĩa.
Trong đó, có thìa và dĩa có cán ngọc trắng kết hợp với thìa và dĩa bằng bạc.
Hai cây sáo tròn, 10 lỗ, tương tự loại sáo làm bằng ống trúc. Bộ cờ tướng chế bằng
loại ngọc xanh và trắng. Một bên quân cờ làm bằng ngọc xanh. Mỗi quân hình trụ,
2 đầu mài cong đều, khắc tên từng quân cờ trong ô tròn: Tướng, Sỹ, Tượng, Xe,
Pháo, Mã, Binh. Một bên quân cờ làm bằng ngọc trắng, tạo hình và kích thước
tương tự những chữ khắc trong ô tròn là: Sư, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt (chữ
Tướng đổi thành Sư, chữ Tượng khắc thành Tương; chữ Pháo khắc bỏ bộ Thạch bên cạnh).
Điều đáng chú ý là chữ khắc trên mặt quân cờ đều có thếp vàng.
Đây có thể là bộ cờ tướng đã được dùng trong
cung vua Nguyễn.
Các bức tranh ngọc trắng xám hình chữ nhật chạm
khắc trên cả 2 mặt với đề tài phong cảnh sơn thủy lâu đài nhân vật, theo tích cổ
Trung Quốc. Khi so sánh với các bức tranh ngọc Trung Quốc chúng tôi nhận thấy mặc
dù có cùng đề tài mà cách thể hiện của nghệ nhân thời Nguyễn lại rất khác. Chẳng
hạn, lối thể hiện cây tùng, con chim hạc, lá tùng không có tán tròn…
Trong số các loại hình đồ ngọc dùng trang trí
nội thất thư phòng hay nghi thức tôn giáo có các loại đỉnh có nắp, bình, lọ và
hộp tròn.
Nhìn chung, loại ngọc dùng để chế tạo đỉnh chỉ
gồm loại xanh xám sẫm và ngọc trắng. Đỉnh ngọc chỉ có phần thân và nắp mà không
có đế rời như thường gặp trên loại đỉnh đồng. Có một số chiếc thuộc loại miệng
tròn hay chữ nhật khá giống đỉnh đồng nhưng có loại đáy tròn thấp hay 4 chân
tròn dẹt là kiểu dáng chỉ gặp ở đỉnh ngọc.
Đề tài trang trí trên đỉnh ngọc xanh xám sẫm
là hoa văn phỏng theo loại hồi văn trên cổ đồng thời Ân - Thương, chân đỉnh tạo
hình chân thú chạm nổi mặt hổ phù, 2 quai đỉnh là đầu rồng hay đầu voi ngậm
vòng tròn. Có trường hợp đặc biệt như chiếc đỉnh ngọc trắng, 2 quai là đầu voi
ngậm vòng tròn, trên mặt quai là tượng chim.
Chiếc đỉnh ngọc trắng 4 chân tròn dẹt, nắp chỏm
là hình rồng 5 móng cuộn, 4 hình viên long ở góc, 2 mặt trước và sau đỉnh tạo
hình cuốn thư chạm chữ Hỷ và hồi văn phỏng cổ đồng, 2 quai hình đầu rồng ngậm
vòng tròn.
Ngoài đề tài hổ phù, hồi văn phỏng theo thời
Ân - Thương, trên các đỉnh ngọc này còn thấy các băng cánh sen, hồi văn chữ S đầu
vuông, hoa sen dây. Đáng chú ý hơn là màu sắc và chất liệu ngọc dùng chế tác đỉnh
còn thấy dùng để chế tác các bình lọ và hộp tròn. Chẳng những thế, giữa các loại
hình đỉnh, bình, lọ và hộp còn có sự tương đồng về các mẫu hoa văn giống nhau:
hoa sen dây, hồi văn chữ S đầu vuông, mặt hổ phù, hồi văn phỏng theo đồ đồng cổ...
Căn cứ vào loại rồng 5 móng, đuôi xoáy, hình
viên long xuất hiện trên một số đỉnh ngọc trong sưu tập cho phép nghĩ rằng
chúng mang đặc điểm nghệ thuật Nguyễn và là những đồ ngự dụng trong cung đình
Huế, thế kỷ 19.
Một số loại hình đồ ngọc có màu sắc, chất liệu
và trang trí kiểu hổ phù hình đầu voi ngậm vòng tròn, tương tự trên nhiều bình,
hũ gốm men có ghi niên hiệu Gia Long như lư hương, bình, lọ, ngọc trắng xám.
Lư hương tròn có 4 chân thú thấp, tương ứng với
4 đầu voi ngậm vòng tròn, miệng và thân khắc hồi văn chữ S đầu vuông và văn
mây.
Trong số các bình, lọ có nắp chế bằng ngọc trắng
đáng chú ý như: chiếc lọ có nắp, miệng đế vuông, quai hình chữ S, trang trí nổi
hình chim ngậm cành đào. Lọ ngọc trắng xám có nắp, miệng đế hình vuông, cổ có 2
cặp đầu voi và hình dơi ngậm vòng tròn cùng các hoa văn như ý, hồi văn chữ S,
chữ Thọ tròn, dây hoa lá và chữ Hỷ. Lọ ngọc nhỏ, hình tỳ bà dẹt, 2 quai là đầu
voi ngậm vòng tròn, 2 mặt chạm cành hoa lá mẫu đơn.
Lọ ngọc trắng xám dẹt, miệng và đế hình bầu dục,
có 2 quai tạo đầu voi ngậm vòng tròn. Bình hoa ngọc trắng xám điểm vân xanh
(tương tự loại ngọc chế nghiên mài mực của vua) có miệng tròn, cổ eo, vai
phình, thân dáng chuông, vai chạm nổi 2 mặt hổ phù.
Một nhóm đồ chế tác bằng ngọc kim sa như bình
treo có nắp, quanh thân chạm hình rồng và kỷ hà, bộ cối và chày giã trầu được tạo
tác kết hợp với vàng, bình miệng vuông có đế gỗ chạm hồi văn chữ T, cánh sen và
mây. Đặc biệt, chuôi ấn 啟定大南皇帝 (Khải Định Đại Nam hoàng đế) cũng được chế tạo bằng ngọc kim sa. Nhóm
đồ ngọc kim sa này có niên đại thế kỷ 19 - 20.
Với loại ngọc hồng, ngọc xanh xám ngả vàng đã
thấy xuất hiện trong những cổ ngọc của cung đình Nguyễn như chiếc lọ có nắp chạm
khắc hình chim ngậm cành lá, quanh thân chạm nổi chim và hoa lá rất sinh động.
Lọ ngọc xanh xám ngả vàng được tạo theo hình
cá ôm bình xen lẫn 1 hình rồng. Một chiếc ống bút ngọc xanh xám ngả vàng tạo
theo hình gốc trúc với 1 con chim trĩ đứng ngẩng đầu. Một chiếc ống bút ngọc
đen và trắng khác lại thấy tạo tác hình gốc mai đen và cành hoa mai trắng.
Ca ngọc trắng xám ngả vàng có quai rồng, quanh
thân chạm mặt hổ phù phỏng theo đồ đồng cổ.
Chiếc ống nhổ ngọc trắng, miệng và đế bịt vàng
khắc băng văn như ý, giữa thân trang trí một vòng vàng gắn chuỗi hạt đá saphie.
Chiếc ống nhổ này với sự hiếm quý về chất liệu và kiểu cách trang trí như trên
mũ vua đã phản ánh là một đồ ngự dụng trong hoàng cung triều Nguyễn.
Trong nhóm cổ ngọc cung đình Huế cũng còn thấy
nhiều loại ấm ngọc có nắp, được tạo hình và trang trí với kỹ thuật tinh xảo. Chất
liệu ngọc dùng để tạo tác ấm thường là màu xanh celadon, trắng xám, trắng xanh.
Ấm ngọc có thể dùng đựng rượu hay trà. Chẳng hạn, ấm ngọc xanh có nắp, vòi hình
chim phượng, xung quanh thân chạm khắc lá hoa sen. Lại có chiếc ấm tạo quai
hình rồng, thân chia múi nổi, xung quanh thân chạm cành hoa mai. Ấm có nắp chạm
nổi cánh sen, thân chạm hình chim phượng và mây giữa 2 băng văn như ý và cánh
sen. Đặc biệt, chiếc ấm ngọc trắng xanh có nắp, miệng và vòi ấm bịt vàng, chỏm
nắp hình búp sen. Thành ngoài ấm khắc 2 băng văn như ý và 4 hình viên long khắc
4 chữ Hán: 紹治年造 (Thiệu Trị niên tạo).
Cũng tương tự như trên các bộ đồ trà bằng sứ
hoa lam đặt làm tại Trung Quốc, ở đây cũng có các bộ đồ trà tạo bằng ngọc trắng
xanh với 1 chén tống 2 chén quân, hay 1 chén tống 3 chén quân, cùng ấm và đĩa.
Viền miệng ấm, chén và đĩa đều bịt vàng. Các hoa văn trên ấm, chén, đĩa này chẳng
những tương tự trên đồ trà sứ hoa lam mà còn hoàn toàn giống nhau cả về cấu
trúc sắp xếp các băng hoa văn và chữ khắc Thiệu Trị niên tạo. Điểm khác với đồ
sứ là trên đồ ngọc, chỉ thấy dùng chữ tạo mà không dùng chữ chế.
Ngoài các bộ ấm, chén và đĩa có khắc trang trí
các băng văn như ý, 4 hình viên long và Thiệu Trị niên tạo, ở đây còn có 2 bộ
tách có nắp và đĩa cùng mang đặc điểm tương đồng về hoa văn và chữ khắc.
Thuộc nhóm chén trà ngọc trắng xanh còn có những
kiểu dáng khác như chén hạt mít, tuy không trang trí hoa văn nhưng rất đều nhau
(đường kính miệng 3,2cm; cao 2,3cm). Chén và đĩa ngọc trắng xanh tạo dáng bông
sen và lá sen Chén miệng loe, ngọc trắng
xanh có 2 tai rồng. Chén và đĩa nhỏ, miệng đứng, sâu lòng, viền miệng bịt vàng.
Có bộ đĩa chén ngọc trắng xanh, xung quanh chén và trong lòng đĩa chạm khắc
hình phượng bay trong mây. Bộ tách có nắp và đĩa ngọc trắng chạm khắc chữ Thọ
tròn và viên long. Có loại tách, được tạo tác từ các chén ngọc, viền miệng bịt
vàng và quai tạo thêm bằng vàng. Trên phần trang trí quai và quanh chén là băng
hồi văn như ý và hình rồng mây, kiểu rồng đuôi xoáy. Những hình rồng ở đây đều
là rồng 5 móng và đuôi rồng xoè hay xoáy là điểm đáng lưu ý về đồ ngự dụng
trong cung đình Nguyễn.
Trong sưu tập còn có các loại chén, đĩa tạo bằng
ngọc trắng xanh, miệng bịt vàng. Chén ngọc trắng chân cao miệng bịt vàng hay tạo
chân cao bằng hình bông hoa vàng. Nhiều loại đồ gia dụng bằng ngọc trắng xanh
hay trắng ngà xám có thể là đồ ngự dụng như bát ngọc trắng, miệng bịt vàng vì
chất liệu và màu sắc tương tự như các ấm chén có ghi niên hiệu Thiệu Trị trên
đây.
Hai chiếc đĩa ngọc trắng xanh, có cùng kiểu
dáng và kích thước, viền miệng bịt vàng. Một chiếc chạm nổi trong lòng hình con
dơi và cành lá quả đào theo đề tài Phúc - Thọ. Một đĩa khác chạm khắc tỷ mỷ 5
hình chim phượng xòe cánh, 1 ở giữa, 4 ở xung quanh.
Bộ tượng bát tiên của đạo Lão, biểu tượng cho
sự trường sinh bất tử tạo bằng ngọc trắng xám. Với phong cách chạm khắc và màu
sắc chất liệu ngọc, chúng tôi cho rằng, bộ tượng này được sản xuất tại Việt Nam
vào thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20. Mặc dù, đề tài này có nguồn gốc từ Trung Quốc,
song nghệ nhân thời Nguyễn đã sáng tạo theo cách của họ. Tám vị trên gồm:
- Hán Chung Ly, tay cầm quạt và 1 quả đào.
- Trương Quả Lão, tay cầm nhạc cụ (ống tiêu).
- Lã Đồng Tân, thần y khoa với cái đuổi ruồi
và thanh gươm.
- Tào Quốc Cựu, thần các nghệ sỹ, tay cầm
xênh.
- Lý Thiết Quài, hóa thân người ăn xin thọt
chân, tay cầm bầu rượu hành hương.
- Hàn Tương Tử, thần các nhạc sỹ, thổi sáo.
- Lam Thái Hòa, thần các người bán hoa, biểu
tượng thời gian đi qua.
- Hà Tiên Cô, tay cầm một nhánh sen, thần bảo
vệ các gia đình.
Các pho tượng tiên đứng tạo tác bằng ngọc xanh
trắng, đỏ nâu, xanh celadon, trắng xanh và đen trong nhiều tư thế khác nhau.
Các pho tượng tiên này cũng thấy có chung một số nét như chỏm tóc búi cao,
khuôn mặt trái xoan, nếp áo dài mềm mại, … Dường như là khác hẳn các pho tượng
đồng loại của nước ngoài.
Bộ tượng Thập nhị chi hay gọi là 12 con giáp. Ở
đây, bộ tượng được thể hiện bằng ngọc trắng xám, mô tả 12 con vật biểu trưng của
12 tháng theo lịch phương Đông, nhưng lại thiếu Mão, con vật đứng hàng thứ 4 là
con mèo. Tất cả 11 tượng này đều ở tư thế ngồi, chân phải gập lại, chân trái chống,
tay cầm một vật gì đó. Sự khác nhau là ở đầu tượng với nét đặc trưng chỉ rõ về
loài: Tý - Chuột; Sửu - Trâu; Dần - Hổ; Thìn - Rồng; Tỵ - Rắn; Ngọ - Ngựa; Mùi
- Dê; Thân - Khỉ; Dậu - Gà; Tuất - Chó; Hợi - Lợn.
Cách thể hiện này mang rõ tính “nhân cách hóa”
khá độc đáo, ít gặp trong nghệ thuật cổ. Đây cũng là bộ tượng ngọc do nghệ nhân
thời Nguyễn chế tạo vào thế kỷ 19.
Ngoài ra còn có những pho tượng độc đáo khác
như voi đứng bằng ngọc xanh xám, uyên ương nằm mỏ ngậm hoa lá sen bằng ngọc trắng.
Có những bộ phận hay vật trang trí tạo hình lá sen, cành hoa lá sen bằng ngọc
trắng ngà cũng là những cổ ngọc đáng chú ý thuộc thời Nguyễn, thế kỷ 19.
Những tượng ngựa phi trên sóng hay thiên nga nằm,
tạo bằng ngọc trắng xám có thể xem là những pho tượng nhỏ khá tinh tế. Các pho
tượng chim, thú và cá đều thấy tạo bằng loại ngọc trắng xám như thiên nga nằm
trên lá sen, mỏ ngậm cành sen; tượng uyên ương nằm mỏ ngậm lá sen hay tượng voi
nằm trên bệ mây, tượng chim nằm đầu quay lại lưng, mỏ ngậm chùm đào, tượng cá
vàng tả thực trong tư thế đang bơi”.
---
P/S: Tôi có đủ bộ ảnh chụp
sưu tập cổ ngọc thời Nguyễn ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (khoảng 300 ảnh), nhưng
do FB chỉ cho đăng 80 ảnh, nên bà con coi tạm chừng này ảnh thôi nhé.
NGƯỜI NƯỚC HUỆ (@ Đà thành, Quảng Nam quốc)
.
No comments:
Post a Comment