Monday, June 27, 2022

CỬA Ô ĐÊM TÀN DẪN LỐI (Nguyễn Trương Quý)

 



Cửa ô đêm tàn dẫn lối    

Nguyễn Trương Quý  

10:54 | Thứ tư, 22/06/2022

https://nguoidothi.net.vn/cua-o-dem-tan-dan-loi-35151.html

 

Người nào đến Hà Nội sau khi đi một vòng, nhẩm tính cũng biết thành phố có nhiều hơn 5 cửa ô và điều này gây thắc mắc cho họ khi họ đã quen với câu hát “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về” trong bài Tiến về Hà Nội của Văn Cao.  Sự thực là Hà Nội có khá nhiều cửa ô trong quá khứ, nhưng rút cục con số 5 vẫn trở thành một số đếm mang tính quy ước, giống như “36 phố phường”, những con số được biểu tượng hóa để thành biểu tượng của Hà Nội.

 

·         Tiếng trống vang từ chân cổ lũy

·         Cõi hoang dại của thành phố

·         Nhị Hà lấp lánh sao thưa

·         Thương về năm cửa ô xưa

 

Biến chúng thành biểu tượng chính là nhờ cách kể chuyện của các sản phẩm truyền thông văn hóa trong thời cận đại như bài hát nói trên, cho dù là một bài hát tuyên truyền có màu sắc lãng mạn. Từ khung cảnh trùng điệp “lớp lớp đoàn quân tiến về” được vẽ nên, cửa ô đã trở thành một khải hoàn môn.

 

Bản thân cửa ô không phải là những công trình kiến trúc đặc sắc hay tráng lệ về kiến trúc. Chúng chỉ trở nên đáng chú ý khi người Pháp xem xét dưới nhãn quan di sản, mà họ cũng làm việc đó khá muộn mằn như đối với thành cổ Hà Nội. Họ đã trót phá đi phần lớn khi quy hoạch một thành phố hiện đại, để rồi như vị toàn quyền Paul Doumer đã tiếc rẻ: “Tôi đã đến quá muộn”.

 

Cửa ô Hà Nội tương ứng với khái niệm cổng thành phố (city gate) ở nhiều nơi trên thế giới, là di sản của một thời đại các đô thị thường có các vòng thành mang chức năng phòng thủ. Khi người Pháp bắt đầu xây dựng thành phố Hà Nội, họ đã nhiều lần nhắc đến bức lũy Đại La xây năm 1749 để xác định làm giới hạn quy ước của đô thị Hà Nội. Lá thư của Thống sứ Bắc kỳ gửi Đốc lý Hà Nội ngày 30.12.1889 đã nhấn mạnh: “Bức lũy cũ phải được coi như giới hạn của thành phố”.

 

Dãy lũy đất xen kẽ xây gạch này có tên gọi là “la thành” (nghĩa là vòng thành bao ngoài), tương ứng với đường vành đai I ngày nay - chúng cũng là những con đê cao hơn phố xung quanh, nhưng nay đã bị bạt đi khá nhiều: Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La Thành, Giảng Võ, Ngọc Hà, Hoàng Hoa Thám… tổng cộng dài 16km. Chiều dài này có thể hơn nếu tính phần đường Bưởi mà một số nghiên cứu cho rằng là la thành từ trước đó.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/00432190-9dd1-4239-b487-483ba663b2dc.jpg

Ô Cựu Lâu (Tây Luông) năm 1873, trong cuốn Hà Nội giai đoạn 1873-1888 của André Masson. Nay ở vị trí quảng trường trước cửa Nhà hát Lớn.

 

Các cửa ô qua dãy lũy này đã có một vai trò quan trọng để các nhà quy hoạch xác định hướng giao thông chính và vùng dân cư, đồng thời chúng trở thành nét đặc trưng còn lại của Hà Nội thời trước khi người Pháp chiếm đóng. Khu vực địa lý mang tên “Hà Nội gốc” đã được khoanh vùng chủ yếu trong phạm vi các cửa ô. Từ khu vực địa lý, chẳng mấy chốc đã biến thành khu vực văn hóa thị dân Hà thành, thứ phân biệt với các vùng quê mùa xung quanh.

 

Có nhiều đô thị ở nước ta có thành quách, thậm chí cũng có vòng la thành với các cổng vào, nhưng chỉ Hà Nội mới gọi là cửa ô, hoặc thậm chí, từ cửa ô đã được dùng luôn để gọi các cửa ngõ vào các thành phố khác, kể cả nước ngoài như trên các mặt báo thời thuộc Pháp. Tên gọi “ngoại ô” cũng được mượn từ chính sự phân vị này (Người Trung Quốc dùng một tên gọi khác: “giao khu”, nghĩa là khu vực bên ngoài thành, người Việt cũng có tên gọi nữa tương đương là “ngoại thành”).

 

Tuy nhiên, dường như tên gọi “cửa ô” mới chỉ được dùng từ sau khi chúa Trịnh Doanh đắp lại vòng tường thành năm 1749, trên cơ sở bức tường lũy thời Mạc.

 

Một số văn bản chữ Hán đã dùng từ “ổ môn” (塢門) để gọi các cửa ô, với chữ “ổ” nghĩa là lũy, ụ. Các văn bản địa chí chính thức nói đến cửa ô như Bắc thành dư địa chí do tổng trấn Lê Chất tổ chức biên soạn dưới thời Minh Mạng. Sau đó, các cuốn Hà Nội địa dư (Dương Bá Cung, 1851, soạn theo sắc chỉ của Tự Đức), Phương Đình dư địa chí loại (Nguyễn Văn Siêu và Bùi Ngọc Quỹ, 1882, khắc in năm 1900), Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ (Đặng Xuân Khanh biên soạn, EFEO 1956) đều xác định có 21 cửa ô: “Đến năm Kỷ Tỵ [1749] đời Cảnh Hưng, cho rằng Kinh sư vốn là vùng đất căn bản, bá quan lục quân đều đóng ở đấy, thế mà bốn phía hở thông thống chẳng có thành lũy gì che chắn, bèn lệnh cho dân ở các huyện ven kinh kỳ khởi công đắp thành... Nay thành ấy còn lại di chỉ dài 7.762 tầm, với 21 cửa ô” (Dương Bá Cung, Hà Nội địa dư, tuyển tập địa chí Thăng Long - Hà Nội).

 

Cho đến giờ, chúng ta cũng chỉ biết tên 18 cửa ô, trong đó một cửa ô không biết vị trí. Bản đồ các năm 1873, 1885 diễn họa khá chi tiết hình thức các cửa ô. Cùng với đó, một số bức ký họa hay ảnh chụp đã kịp ghi lại cho ta hình dung được quy mô thực của các cửa ô, cơ bản có hai loại: loại có cửa vòm và lầu gác bên trên (có thể xây thành lối tam quan như Ô Quan Chưởng), và loại chỉ có hai trụ biểu cùng hai cánh cổng gỗ mở vào.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/b21cb7d9-d48f-49bd-b27a-0f304969dd97.jpg

Sơ đồ các cửa ô trên cơ sở bản đồ Hà Nội 1831, theo Trần Huy Bá.

 

Tất nhiên bằng chứng xác đáng nhất còn lại ngày nay là di tích Ô Quan Chưởng với biển đề chữ Hán “Đông Hà môn”. Cửa ô này được xây năm 1817 trên nền đình Thanh Hà được di dời. Những cửa ô khác chỉ tồn tại đến thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, như Ô Cựu Lâu bị phá năm 1886 khi mở trục đường rải đá đầu tiên của Hà Nội là Hàng Khảm (Tràng Tiền - Hàng Khay) và Ô Cầu Dền bị phá vào tháng 9.1895 là cửa ô tồn tại sau cùng ngoài Ô Quan Chưởng. Những cửa ô trên những bức ảnh ở tình trạng không được chăm sóc, chỉ còn là bằng chứng của một quá khứ suy tàn.

Đó là những thông tin có tính khảo cứu về mặt số liệu và hình thái vật chất của cửa ô. Vậy từ lúc nào con số 21 hay 18, lại chỉ còn là 5?

 

Ý niệm số đếm tương ứng phương vị của địa lý nằm trong văn hóa trọng các tập hợp hệ thống của người Á Đông và người Việt cũng không phải ngoại lệ. Con số “Hà Nội băm sáu phố phường” là một tiêu biểu, vốn dĩ có thực để chỉ số phường của Thăng Long - Hà Nội qua nhiều thời kỳ, song trải rộng trên một diện tích rất rộng, đến thời cận đại đã được mượn để chỉ một sự ước định: “rủ nhau chơi khắp Long thành, ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai”, chủ yếu là những phố tên Hàng trong khu vực phố buôn bán hình tam giác kẹp giữa sông Hồng và thành cổ Hà Nội, nằm ở phía Bắc Hồ Gươm ngày nay.

 

Thực tế có đến hơn 70 phố từng có tên loại này, nhưng con số 36 được chọn có lẽ vì được xếp vào loại số đẹp trong lĩnh vực dịch học, liên quan những sự phân loại vừa thực tế vừa huyền hoặc.

 

Về mặt phương vị thời Nguyễn, Hà Nội ở vào trung tâm khu vực đồng bằng và bán sơn địa Bắc bộ, với mặt phía Bắc và Đông giáp với sông Hồng tiếp nối đi lên Kinh Bắc tới tận Ải Nam Quan và về miền Hải Phòng - Quảng Yên, mặt phía Nam là con đường thiên lý xuyên Việt, mặt phía Tây Bắc đi lên miền Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang (“Sơn Hưng Tuyên”), mặt phía Tây Nam đi về Hòa Bình - Sơn La, lên Tây Bắc và sang Lào. Sự phân bố này dựa trên hệ thống “tứ trấn” thời Lê, tạo ra hình thái năm ngả đường, và đây cũng là cơ sở cho những sự phát triển giao thông thời thuộc địa. Nhưng để thực sự hình thành một con số 5 thì cần một yếu tố thị giác rõ ràng.

 

Các thi sĩ và nhạc sĩ của cuộc Cách mạng tháng Tám đã nhìn thấy và tìm thấy cảm hứng từ ngôi sao vàng năm cánh trên lá quốc kỳ, vốn được diễn giải là đại diện cho năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh. Với vị thế “cố đô rồi lại tân đô/ nghìn năm văn vật bây giờ là đây” như lời một bài ca dao tân thời, họ đã dùng thủ pháp chập hình ảnh trên tấm bản đồ Hà Nội như một bài hát hồi tưởng ngày độc lập đã viết: “Chói lọi sao vàng hoa vĩ đại/ Năm cánh xòe trên năm cửa ô” (Ba Đình nắng - Bùi Công Kỳ, thơ Vũ Hoàng Địch, 1947). Hình ảnh này đã nhấn mạnh tính chất quy tâm của Hà Nội như một ý niệm chính trị, văn hóa, mặt khác “ngôi sao - năm cửa ô” tạo ra một truyền thống mới về khắc họa tư duy sử thi cho nơi chốn, mà các cuộc kháng chiến sau đó bồi đắp tiếp.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/b0455f77-bb1b-4f82-a11b-285bbad1cf3d.jpg

Bìa bản nhạc Ba Đình nắng (Bùi Công Kỳ, thơ Vũ Hoàng Địch),

 

Không phải duy nhất và sớm nhất viết về biểu tượng này, nhưng bài ca Tiến về Hà Nội của Văn Cao viết năm 1949 có vị thế phổ biến giúp cho cảm nhận về “năm cửa đón mừng đoàn quân tiến về, như đài hoa đón chào nở năm cánh đào, chảy dòng sương sớm long lanh”, có lẽ nhờ vai trò tác giả hàng đầu của tân nhạc thời độc lập. Điều lý thú là những người đầu tiên nghe Văn Cao hát bài này ở chiến khu lại là hai họa sĩ, Tạ Tỵ và Bùi Xuân Phái.

 

Nếu Bùi Xuân Phái suốt đời sẽ thành danh với danh xưng “phố Phái” thì Tạ Tỵ mang một nỗi hoài niệm về khi ông không đứng cùng đoàn quân tiến về Hà Nội cùng Văn Cao, mà ở vị thế cách biệt trùng trùng khi đã di cư vào Nam, như những câu thơ ông viết năm 1955:

 

Tôi đứng bên này vĩ tuyến

Thương về năm cửa ô xưa

Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối

Đê cao hun hút chợ Dừa

Cầu Dền mưa dầm lầy lội

Gió về đã buốt lòng chưa?

Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ

Nhị Hà lấp lánh sao thưa

Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ

Nhớ nhung biết mấy cho vừa…

Cửa ô ơi, cửa ô

Năm ngả đường đất nước

Trôi từ vạn nẻo sông hồ

Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội

Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!…

(Thương về năm cửa ô xưa, trích - Tạ Tỵ, 1955)

 

Bản thân cuộc “tiến về Hà Nội” đã diễn ra đúng như lời ca của Văn Cao: “Các đơn vị chủ lực của quân đội nhân dân ở đường đê La Thành từ 3 giờ chiều hôm qua, đã chia làm nhiều cánh tiến vào 5 cửa ô chính rồi tỏa ra các khu” (“Ngày 9.10.1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiếp thu hoàn toàn Thủ đô Hà Nội”, Nhân dân 11.10.1954). Ở đây bài báo đã nhắc đến “5 cửa ô chính”, nghĩa là có những cửa ô phụ khác.

 

Nhưng lùi lại thời điểm 1949, bài hát của Văn Cao gặp một số ý kiến phê bình khi ông bị cho là “lạc quan tếu” khi vẽ ra viễn cảnh khải hoàn quá sớm trong lúc cuộc kháng chiến hãy còn trong giai đoạn cầm cự. Cụm từ “lạc quan tếu” mặc dù khá sáo mòn nhưng có lẽ những người phê bình Văn Cao cảm thấy không an tâm với sự lãng mạn của lời ca về mong ước “chúng ta ươm lại hoa, sắc hương phai ngày xa, ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu”.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/357fa9eb-f0ef-4ef4-af7d-59003329ee07.jpg

Bìa bản nhạc Tiến về Hà Nội (Văn Cao).

 

Nỗi hoài niệm bị coi là tiểu tư sản này chẳng có gì khác với người nông dân “làng tôi theo đoàn quân chiến thắng, đánh tan lũ quân thù, về làng xưa” với tiếng chuông nhà thờ xưa lại ngân trong bài hát Làng tôi của chính Văn Cao. Những từ “xưa” này xem ra nguy hiểm bởi man mác một ký ức chẳng có điểm dừng, mà Tạ Tỵ cũng dùng để gọi - Thương về năm cửa ô xưa.

 

Ở trong bài thơ của Tạ Tỵ, ông liệt kê tên 5 cửa ô: Quan Chưởng, Chợ Dừa, Cầu Dền, Yên Phụ, Cầu Giấy. Vì sao là 5 cửa ô này mà không có những cửa ô Đồng Lầm, Đống Mác, Cựu Lâu, Thụy Chương,… những cái tên vẫn còn tồn tại đến lúc ấy? Một lý do có thể giải thích là 5 cửa ô trên là những cửa ô còn lại dấu tích hoặc bị phá sau cùng, kịp để lại ký ức về hình dáng trong cộng đồng, cũng như chúng nằm trên những tuyến đường chính đi các ngả quanh Hà Nội.

 

Các cửa ô mà Tạ Tỵ gọi tên được bố trí cân xứng như hình một ngôi sao năm cánh trên bản đồ, chính là năm hướng của thời “xưa”: Yên Phụ phía Bắc, Cầu Giấy phía Tây, Quan Chưởng phía Đông, Chợ Dừa - Tây Nam và Cầu Dền - Đông Nam. Dẫu Tạ Tỵ không nói đến hình ảnh ngôi sao nào, nhưng sự định vị năm nẻo đường từ Hà Nội tỏa đi là một gợi nhớ bố cục không gian trong bài ca của Văn Cao. Bài thơ này cũng được một nhạc sĩ di cư là Y Vân phổ nhạc, và năm cửa ô còn xuất hiện trong bài hát Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội của Phạm Đình Chương với ca từ của Hoàng Anh Tuấn, đều là những người đã bỏ lại Hà Nội sau lưng.

 

Nhưng cũng như vai trò nguyên thủy của chúng là những cánh cổng ra vào thành phố, năm cửa ô dẫn đến năm ngả đường đất nước, nhưng cũng chính thức đóng khung Hà Nội trong một phạm vi. Cửa ô là chỉ dấu của giới hạn, của một trạng thái ngăn cách, và có hàm ý đóng. Một lý giải khác cho con số năm có thể tìm thấy ở sự phân bố các tuyến tàu điện lập từ thời Pháp, tỏa đi 5 ngả trước khi hoàn thành tuyến cuối cùng vào năm 1943. Sự giản lược thành năm cửa ô giúp cho tính biểu tượng dễ nhập tâm hơn nhiều so với 21 hay 18. Con số năm đã thành số đếm hợp lý.

 

Những lời thơ hay bài ca chung đúc một cảm thức không gian Hà Nội đã láy lại hình tượng năm cửa ô nhiều lần, đến độ tựa như một mỹ danh tuyên truyền: “Ta còn em năm cửa ô năm cửa gió” (Em ơi Hà Nội phố, thơ Phan Vũ), “Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô” (Hà Nội niềm tin và hy vọng, nhạc Phan Nhân), “Hà Nội ngàn xưa, năm cửa ô mỗi ngày thêm mới” (Tình yêu Hà Nội, nhạc Hoàng Vân).

 

Thậm chí hình tượng này còn được dùng cho một thành phố khác là Hải Phòng qua câu thơ của Tố Hữu, với tư cách Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào năm 1984: “Bốn cống ba cầu năm cửa ô/ Đào kênh lấn biển mở cơ đồ/ Làm ăn hai chữ à ra thế!”. Những câu thơ dạng tứ tuyệt bị bỏ lửng câu cuối này có một hậu chuyện về cuộc thi viết nối tiếp thơ để cổ vũ sự phát triển của thành phố. Nhưng ở đây, Hải Phòng không tồn tại một di tích la thành nào để có những cửa ô thực sự như câu thơ ban đầu của Tố Hữu.

 

https://uploads.nguoidothi.net.vn/content/c424d47f-95a9-4ff0-a56b-1ce0fc915831.jpg

Ô Quan Chưởng - tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Bỉnh Sơn.

 

Một nhà thơ khác, Trần Dần, người có một số phận ngược chiều với Tố Hữu trong thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, gọi ngả vào thành phố quê hương Nam Định của mình là “cổng tỉnh” như tên một tập tiểu thuyết bằng thơ dài khởi thảo từ năm 1959. Nam Định là nơi có dấu tích tòa thành thời Nguyễn cùng khu phố cổ cũng có những cái tên giống Hà Nội như Hàng Đồng, Hàng Nâu, Hàng Giấy, nhưng Trần Dần dùng một cách gọi bình dân để làm thành nhãn tự của ông.

 

Nhưng cũng như những tên gọi phố Hàng có ở Nam Định, rút cục người ta nghĩ ngay đến những phố cổ hay những cửa ô của Hà thành, thứ đã có một đời sống kinh tế và văn hóa quy mô tập trung hơn. Ngay bản thân những phố Hàng của Hà Nội cũng nhiều hơn con số 36, tương tự là số cửa ô nhiều hơn 5, song nhu cầu tạo dựng biểu tượng đã tạo ra chúng.

 

Năm cửa ô hay nhiều hơn thế, ngày nay đã nằm lọt giữa một vùng đô thị rộng lớn của Hà Nội thế kỷ XXI. Chúng chỉ còn lại những cái tên được dùng lại ở một vài tuyến phố hay tên phường hành chính làm kỷ niệm, ngoại trừ Ô Quan Chưởng mỗi ngày một bé nhỏ giữa những ngôi nhà nhiều tầng xung quanh. Nhưng chẳng phải ở đất này, những cái bé nhỏ lại là thứ khiến chúng được đồng cảm đó sao: “Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô, như ngày xưa chạm vai gầy áo mẹ” (nhạc Phú Quang, thơ Thanh Tùng)? Chúng còn sống là nhờ những ký ức được đọc lên, hát lên, tạo ra sự giằng néo của người hôm nay với nơi chốn định hình họ.

 

Nguyễn Trương Quý

 

(*) Bài viết có tham khảo thông tin tư liệu của nhà nghiên cứu Hán Nôm Quách Hiền

 

 

·         Ngã tư dặt dìu cung bậc âm dương

·         “Ánh nê-ông pha biếc buổi chiều...”

·         “Cuộc diễn ca của tương lai”

·         Chở sầu xê dịch sớm khuya

·         Nguyễn Trương Quý: Hình dung một chiếc thắt lưng xanh...





No comments: