Mỹ
có thể học được gì từ Trung Quốc?
Stephen M. Walt - Foreign
Policy
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/06/26/my-co-the-hoc-duoc-gi-tu-trung-quoc/
Trong bối
cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy, người Mỹ nên tự hỏi Bắc Kinh đang làm gì đúng –
và Mỹ đang làm gì sai.
Trong
bất kỳ lĩnh vực nào, các đối thủ cạnh tranh cũng không ngừng phấn đấu để làm tốt
hơn. Họ tìm kiếm những sáng kiến giúp cải thiện vị thế của mình và nỗ lực bắt
chước bất cứ điều gì có hiệu quả với đối thủ. Chúng ta đã chứng kiến hiện tượng
này trong thể thao, kinh doanh, và cả chính trị quốc tế. Bắt chước không có
nghĩa là phải làm chính xác những gì người khác đã làm, nhưng việc phớt lờ các
chính sách mang lại lợi ích cho người khác và từ chối thích nghi chính là cách
khiến bạn tiếp tục thua cuộc.
Ngày
nay, nhu cầu cạnh tranh hiệu quả hơn với Trung Quốc có lẽ là vấn đề chính sách
đối ngoại duy nhất mà gần như tất cả các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa đều đồng
ý với nhau. Sự đồng thuận đó đang định hình ngân sách quốc phòng của Mỹ, thúc đẩy
nỗ lực củng cố các quan hệ đối tác ở châu Á, và khuyến khích một cuộc thương
chiến công nghệ cao đang dần được mở rộng. Tuy nhiên, ngoài việc cáo buộc Trung
Quốc đánh cắp công nghệ của Mỹ và vi phạm các hiệp định thương mại trước đó,
các chuyên gia cảnh báo về Trung Quốc hiếm khi xem xét các biện pháp rộng hơn
đã giúp Bắc Kinh đạt được điều này. Nếu Trung Quốc thực sự đang “cướp đi” vị
trí của Mỹ, thì không phải người Mỹ nên tự hỏi xem Bắc Kinh đang làm đúng
điều gì và Mỹ đang làm sai điều gì hay sao? Liệu cách tiếp cận chính sách đối
ngoại của Trung Quốc có mang lại một số bài học hữu ích cho Washington không?
Chắc
chắn, phần lớn nguyên nhân sự trỗi dậy của Trung Quốc là do các cải cách nội bộ.
Quốc gia đông dân nhất thế giới luôn có tiềm năng sức mạnh to lớn, nhưng tiềm
năng đó đã bị kìm hãm suốt hơn một thế kỷ do những chia rẽ nội bộ sâu sắc hoặc
các chính sách kinh tế Marxist sai lầm. Một khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ
bỏ chủ nghĩa Marx (nhưng không từ bỏ chủ nghĩa Lenin) và chấp nhận thị trường,
thì việc sức mạnh tương đối của nước này tăng vọt là điều không thể tránh khỏi.
Và người ta có thể lập luận rằng: những nỗ lực của chính quyền Biden nhằm phát
triển chính sách công nghiệp quốc gia thông qua Đạo luật Giảm phát và các biện
pháp khác là một nỗ lực muộn màng nhằm bắt chước những nỗ lực được nhà nước hậu
thuẫn ở Trung Quốc để chiếm ưu thế trong một số công nghệ then chốt.
Tuy
nhiên, sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ nhờ vào những cải cách trong nước
hay sự tự mãn của phương Tây. Sự trỗi dậy của Trung Quốc còn được tạo điều kiện
thuận lợi nhờ cách tiếp cận chính sách đối ngoại trên diện rộng, điều mà các
nhà lãnh đạo Mỹ nên cân nhắc.
Đầu
tiên và rõ ràng nhất là Trung Quốc đã tránh được những vũng lầy tốn kém mà Mỹ
đã sa vào hết lần này đến lần khác. Ngay cả khi sức mạnh của họ đã tăng lên, Bắc
Kinh vẫn tỏ ra dè dặt trước các cam kết tốn kém ở nước ngoài. Ví dụ, họ không hứa
sẽ tham chiến để bảo vệ Iran, hoặc bảo vệ các đối tác kinh tế khác nhau của
mình ở châu Phi, Mỹ Latinh, hoặc Đông Nam Á. Trung Quốc đang cung cấp cho Nga
các công nghệ lưỡng dụng có giá trị về mặt quân sự (và được trả công hậu hĩnh),
nhưng Bắc Kinh không gửi vũ khí sát thương cho Nga, cũng không tranh luận về việc
có nên cử cố vấn quân sự hoặc quân đội của mình sang giúp Nga giành chiến thắng.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin có thể nói rất
nhiều về quan hệ đối tác “không giới hạn” của họ, nhưng Trung Quốc vẫn đang tiếp
tục đưa ra những mặc cả cứng rắn trong các thỏa thuận với Nga, đáng chú ý nhất
là yêu cầu được mua dầu và khí đốt của Nga với giá hời.
Ngược
lại, Mỹ dường như có một bản năng sai lầm khi liên tục lao vào những hố cát lún
trong chính sách đối ngoại.
Khi
không lật đổ các nhà độc tài hoặc chi hàng nghìn tỷ đô la để cố gắng xuất khẩu
dân chủ đến những nơi như Afghanistan, Iraq hay Libya, thì người Mỹ lại liên tục
mở rộng các cam kết an ninh mà họ hy vọng sẽ không bao giờ phải thực hiện đối với
các quốc gia trên khắp thế giới. Đáng chú ý, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn cho rằng
mình đang đạt được một thành tựu chính sách đối ngoại nào đó bất cứ khi nào họ
nhận nhiệm vụ bảo vệ một quốc gia khác, ngay cả khi quốc gia đó có giá trị chiến
lược hạn chế hoặc không thể làm gì nhiều để thúc đẩy lợi ích của Mỹ.
Mỹ
hiện đang chính thức cam kết bảo vệ nhiều quốc gia hơn bất kỳ thời điểm nào
trong lịch sử của nước này, và việc cố gắng đáp ứng tất cả những cam kết đó
giúp giải thích tại sao ngân sách quốc phòng của Mỹ lại lớn hơn nhiều so với
Trung Quốc. Hãy tưởng tượng xem người Mỹ có thể làm gì với khoản chênh lệch hơn
nửa nghìn tỷ đô la mỗi năm giữa ngân sách quốc phòng của Mỹ và của Trung Quốc.
Nếu không cố gắng kiểm soát toàn thế giới, có lẽ Mỹ đã có thể xây dựng các cơ sở
hạ tầng đường sắt, vận tải đô thị, và sân bay đẳng cấp thế giới – giống như
Trung Quốc – trong khi duy trì thâm hụt ngân sách ở mức thấp hơn.
Đây
không phải là lập luận ủng hộ việc rời khỏi NATO, cắt đứt mọi cam kết của Mỹ,
và rút lui về Pháo đài Mỹ, nhưng nó ngụ ý rằng cần thận trọng hơn trong việc mở
rộng các cam kết mới và yêu cầu các đồng minh hiện tại của Mỹ phải gánh vác
thêm trách nhiệm. Nếu Trung Quốc có thể phát triển mạnh mẽ và mở rộng tầm ảnh
hưởng, mà không cần cam kết bảo vệ hàng chục quốc gia trên thế giới, thì tại
sao người Mỹ lại không thể?
Thứ
hai, khác với Mỹ, Trung Quốc duy trì quan hệ ngoại giao kiểu kinh doanh với gần
như hầu hết các nước. Họ có nhiều cơ quan ngoại giao hơn bất kỳ quốc gia nào
khác, các vị trí đại sứ của họ hiếm khi bị bỏ trống, và các nhà ngoại giao của
họ ngày càng trở thành những chuyên gia được đào tạo bài bản (thay vì những
nhân vật nghiệp dư với chuyên môn chính là khả năng gây quỹ cho các ứng viên tổng
thống thành công). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức rằng quan hệ ngoại
giao không phải là phần thưởng cho những nước có hành vi tốt; chúng là một công
cụ thiết yếu để thu thập thông tin, truyền đạt quan điểm của Trung Quốc tới các
nước khác, và thúc đẩy lợi ích của họ thông qua thuyết phục chứ không phải vũ lực
thô bạo.
Ngược
lại, Mỹ vẫn có xu hướng từ chối công nhận ngoại giao đối với các quốc gia mà họ
có mâu thuẫn, theo đó khiến việc hiểu được lợi ích và động cơ của những nước
này, cũng như việc truyền đạt quan điểm của Mỹ, trở nên khó khăn hơn nhiều.
Washington từ chối công nhận chính thức các chính phủ Iran, Venezuela, hoặc Triều
Tiên, dù việc có thể liên lạc thường xuyên với các chính phủ này sẽ rất hữu
ích. Trong khi đó, Trung Quốc sẵn sàng đối thoại với tất cả các quốc gia này và
với tất cả các đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Liệu người Mỹ có nên bắt chước họ?
Chẳng
hạn, Trung Quốc có quan hệ ngoại giao và kinh tế với mọi quốc gia ở Trung Đông,
bao gồm cả những quốc gia có liên kết chặt chẽ với Mỹ như Israel hay Ai Cập.
Ngược lại, Mỹ chỉ có “quan hệ đặc biệt” với Israel (và, ở một mức độ nào đó, là
quan hệ với Ai Cập và Ả Rập Saudi), có nghĩa là Mỹ ủng hộ Israel bất kể họ làm
gì. Tuy nhiên, Mỹ không có liên hệ thường xuyên với Iran, Syria, hay với lực lượng
Houthi đang kiểm soát phần lớn Yemen. Các đối tác khu vực của Mỹ coi sự ủng hộ
của Mỹ là đương nhiên, nhưng lại thường xuyên phớt lờ lời khuyên của Mỹ, bởi vì
họ không bao giờ phải lo lắng về việc Mỹ tiếp cận các đối thủ của họ. Trường hợp
điển hình: Ả Rập Saudi đang duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Nga và Trung Quốc,
và đã sử dụng các mối đe dọa ngầm nhằm đạt được những nhượng bộ ngày càng lớn
hơn từ Washington, nhưng các quan chức Mỹ chẳng bao giờ chơi trò chơi cân bằng
quyền lực chính trị tương tự để đáp trả. Do sự bất cân xứng này, nên không có
gì đáng ngạc nhiên khi chính Bắc Kinh, chứ không phải Washington, mới là bên
hòa giải gần đây giữa Ả Rập Saudi và Iran.
Thứ
ba, cách tiếp cận chung của Trung Quốc đối với chính sách đối ngoại nhấn mạnh
chủ quyền quốc gia: ý tưởng rằng mọi quốc gia nên được tự do tự trị theo các
giá trị của riêng mình. Nếu bạn muốn làm ăn với Trung Quốc, bạn sẽ không cần phải
lo lắng về việc bị chỉ đạo cách điều hành đất nước của mình, hay việc bị trừng
phạt nếu hệ thống chính trị của bạn khác với hệ thống của Bắc Kinh.
Ngược
lại, Mỹ tự xem mình là nhân vật chính thúc đẩy một tập hợp các giá trị tự do phổ
quát, và tin rằng việc truyền bá dân chủ là một phần trong sứ mệnh toàn cầu của
mình. Chỉ trừ một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý, người Mỹ thường sử dụng
quyền lực của mình để buộc các quốc gia khác phải làm nhiều hơn để tôn trọng
nhân quyền và tiến tới dân chủ, và đôi khi, họ đặt điều kiện chỉ giúp đỡ nếu
các quốc gia khác cam kết làm nhiều hơn để tôn trọng nhân quyền và tiến tới dân
chủ. Nhưng xét đến việc phần lớn các quốc gia trên thế giới không phải là những
nền dân chủ toàn diện, nên cũng dễ hiểu tại sao nhiều quốc gia lại thích cách
tiếp cận của Trung Quốc hơn, đặc biệt là khi Trung Quốc mang lại cho họ những lợi
ích hữu hình. Như cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers đã kể lại, “Một người
từ một nước đang phát triển nói với tôi rằng ‘Những gì chúng tôi nhận được từ
Trung Quốc là một sân bay. Những gì chúng tôi nhận được từ Mỹ là một bài giảng.’”
Nếu bạn là một kẻ độc tài, hoặc là lãnh đạo của một nền dân chủ không hoàn hảo,
bạn sẽ thấy cách tiếp cận nào hấp dẫn hơn?
Tệ
hại hơn nữa là thói lên mặt đạo đức của Mỹ, khiến nước này dễ bị buộc tội đạo đức
giả bất cứ khi nào họ không đáp ứng được các tiêu chuẩn của chính mình. Tất
nhiên, không cường quốc nào có thể sống đúng với tất cả những lý tưởng mà họ
tuyên bố, nhưng nếu một quốc gia tuyên bố mình là đạo đức độc nhất vô nhị, thì
hình phạt khi họ không đạt được mục tiêu là rất lớn. Không ở đâu vấn đề này lại
rõ ràng hơn ở phản ứng thiếu nhất quán và thiếu mạch lạc về mặt chiến lược của
chính quyền Biden đối với cuộc chiến ở Gaza. Thay vì lên án tội ác của cả hai
bên và sử dụng toàn bộ đòn bẩy của Mỹ để chấm dứt giao tranh, Mỹ lại cung cấp
phương tiện để Israel tiến hành một chiến dịch hủy diệt đầy thù hận, đồng thời
bảo vệ Israel tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc và bác bỏ những cáo buộc diệt
chủng hợp lý, bất chấp việc có bằng chứng dồi dào, cũng như những đánh giá gay
gắt của cả Tòa án Công lý Quốc tế và công tố viên trưởng của Tòa án Hình sự Quốc
tế. Cùng lúc đó, Mỹ vẫn khăng khăng về tầm quan trọng của việc duy trì “trật tự
dựa trên luật lệ.” Không có gì ngạc nhiên khi những sự kiện này đã hủy hoại
nghiêm trọng hình ảnh của Mỹ ở Trung Đông và phần lớn các nước phương Nam, hoặc
rằng Trung Quốc đang được hưởng lợi từ chúng. Đáng chú ý hơn, các quan chức Mỹ
vẫn chưa đưa ra một tuyên bố rõ ràng nào để giải thích: làm thế nào mà phản ứng
của Mỹ đối với thảm kịch này lại khiến người dân Mỹ an toàn hơn, thịnh vượng
hơn, hoặc được ngưỡng mộ hơn trên toàn thế giới.
Tóm
lại, Trung Quốc đã vươn lên trở thành đối thủ chính của Mỹ một phần bằng cách
huy động sức mạnh tiềm ẩn của mình một cách hiệu quả hơn, nhưng cũng bằng cách
hạn chế các cam kết ở nước ngoài, và tránh những tổn thương tự gây ra mà các đời
chính quyền Mỹ liên tiếp đang phải gánh chịu. Điều đó không có nghĩa là thành
tích của Trung Quốc là hoàn hảo – họ còn lâu mới đạt được điều đó. Tập Cận Bình
đã mắc sai lầm khi công khai từ bỏ chính sách trỗi dậy hòa bình, và chính sách
ngoại giao “chiến lang” dân tộc chủ nghĩa của ông đã khiến các quốc gia trước
đây từng hoan nghênh một quan hệ chặt chẽ hơn với Bắc Kinh nay lại xa lánh nước
này. Sáng kiến Một Vành Đai, Một Con Đường được tung hô hết mình lại thành tích
tốt xấu lẫn lộn, vừa tạo thiện chí vừa gây phẫn nộ, và đã dẫn đến các khoản nợ
khổng lồ mà Bắc Kinh khó có thể thu hồi được. Việc ngầm ủng hộ Nga ở Ukraine
cũng làm hoen ố hình ảnh của Trung Quốc ở châu Âu và khuyến khích các chính phủ
ở lục địa già rút lui khỏi việc hội nhập kinh tế chặt chẽ hơn. Và không phải
lúc nào Trung Quốc cũng tuân theo cam kết của họ đối với nguyên tắc chủ quyền
quốc gia.
Nhưng
những người Mỹ đang lo lắng sâu sắc về sự trỗi dậy của Trung Quốc nên suy ngẫm
về những gì Bắc Kinh đã làm tốt và những gì Washington đã làm kém. Thật khó để
bỏ qua điều trớ trêu: Trung Quốc đã trỗi dậy nhanh chóng một phần nhờ bắt chước
sự trỗi dậy trước đó của Mỹ lên đỉnh cao quyền lực thế giới. Nước Mỹ non trẻ có
nhiều lợi thế bẩm sinh, bao gồm một lục địa màu mỡ, dân số bản địa thưa thớt và
bị chia rẽ, cũng như được bảo vệ bởi hai đại dương rộng lớn, và nước này đã tận
dụng những lợi thế đó bằng cách tránh xa rắc rối ở nước ngoài và xây dựng sức mạnh
nội tại. Từ năm 1812 đến năm 1918, Mỹ chỉ tham gia hai cuộc chiến với nước
ngoài, và các đối thủ của họ trong các cuộc chiến đó – Mexico năm 1846 và Tây
Ban Nha năm 1898 – đều là những nước yếu không có đồng minh đáng kể. Và một khi
đã trở thành cường quốc, Mỹ lại để các cường quốc khác tự cân bằng lẫn nhau, đứng
ngoài xung đột của họ càng lâu càng tốt, chịu ít thiệt hại nhất trong cả hai cuộc
thế chiến, và sau cùng “giành được hòa bình.” Trung Quốc đã đi theo con đường
tương tự kể từ năm 1980 và cho đến nay đã đạt được thành quả xứng đáng.
Thủ
tướng Đức Otto von Bismarck từng nhận xét: “Chỉ có kẻ ngốc mới học từ những sai
lầm của chính mình. Người khôn ngoan học hỏi từ sai lầm của kẻ khác.” Nhận xét
của ông có thể được điều chỉnh một chút: Một đất nước khôn ngoan học hỏi không
chỉ từ sai lầm của nước khác, mà còn từ những gì nước khác đã làm đúng. Mỹ
không nên tìm cách trở nên giống Trung Quốc (dù cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump
rõ ràng ghen tị với hệ thống độc đảng của nước này), nhưng người Mỹ vẫn có thể
học được đôi điều từ cách tiếp cận thực dụng và tư lợi của Bắc Kinh đối với phần
còn lại của thế giới.
--------------------
Stephen
M. Walt
là chuyên gia bình luận của Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế tại
Đại học Harvard.
===================================================
Có
Thể Bạn Quan Tâm:
1.
Chúng ta nên sợ Trung Quốc đến
mức nào?
2.
Nhiệm
kỳ hai của Trump sẽ không khiến chính sách đối ngoại Mỹ thay đổi quá nhiều?
3.
Có phải Trung Quốc
đã đạt đến đỉnh cao quyền lực?
4.
Phân tích 4
mô hình khả dĩ dành cho NATO trong tương lai
5.
Thất bại của Nga sẽ là vấn đề của
Mỹ
6.
Thế giới sẽ ra sao khi một
đế chế sụp đổ?
7.
Tình
hình cạnh tranh vũ khí hạt nhân giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan
8.
Bilahari
Kausikan: Tập đã mắc 3 sai lầm trong chính sách đối ngoại
No comments:
Post a Comment