Nhân đọc bản luận án về “Nghĩa Vụ Con Người”
Bài 1: Hiểu sai khái niệm
"Con Người" khiến luận án "Nghĩa
vụ con người..." sai theo
GS. Nguyễn Ngọc Lanh (ngoclanhnguyen@yahoo.com)
.
Bài
2: Làm rõ khái niệm "Con Người" để thấy sai sót căn bản của luận án : Suy ngẫm & Tự vấn
GS. Nguyễn Ngọc Lanh (ngoclanhnguyen@yahoo.com)
.
Ai
thực sự là người viết luận án của ông Vương Tấn Việt?
Khanh Duy/ LCKH - 28-6-2024
.
Trường
ĐH Luật Hà Nội hay các GS đã “cúng dường” cho thượng tọa Thích Chân Quang bằng
tiến sĩ?
BTV Tiếng Dân - 28/06/2024
====================================================
Bài
2: Làm rõ khái niệm "Con Người" để thấy sai sót căn bản của luận án : Suy ngẫm & Tự vấn
GS. Nguyễn Ngọc Lanh (ngoclanhnguyen@yahoo.com)
06:55
CH @ Thứ Ba - 07 Tháng Hai, 2023
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/lam-ro-khai-niem-con-nguoi-de-thay-sai-sot-can-ban.html
Bài
trước:
·
Bài 1: Hiểu sai khái niệm "Con Người" khiến luận án
"Nghĩa vụ con người..." sai theo
Quá
trình soạn thảo Tuyên Ngôn phổ quát về Quyền Con Người
https://en.wikipedia.org/wiki/Universal_Declaration_of_Human_Rights
Tất
cả 193 quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc đã phê chuẩn ít nhất một trong
chín hiệp ước ràng buộc chịu ảnh hưởng của Tuyên bố, với đại đa số phê chuẩn bốn
hiệp ước trở lên. Mặc dù có sự đồng thuận rộng rãi rằng bản thân tuyên bố này
không có tính ràng buộc và không phải là một phần củaluật tập quán quốc tế,
nhưng cũng có sự đồng thuận rằng nhiều điều khoản của nó có tính ràng buộc và
đã được chuyển thành luật tập quán quốc tế, mặc dù tòa án ở một số
quốc gia đã hạn chế hơn về hiệu lực pháp lý của nó.
Tuy
nhiên, UDHR đã ảnh hưởng đến sự phát triển pháp lý, chính trị và xã hội ở cả cấp
độ toàn cầu và quốc gia, với tầm quan trọng của nó được minh chứng một phần qua
530 bản dịch, nhiều nhất trong số các tài liệu trong lịch sử.
SƠ
LƯỢC VỀ LUẬN ÁN
-
Tên đầy đủ của luận án
“Nghĩa
vụ con người trong Pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam”.
Có
thể download toàn văn (Việt và Anh) trên mạng internet.
- Tác
giả luận án:
Nghiên
cứu sinh Vương Tấn Việt, tức nhà sư Thích Chân Quang.
- Hai
nhà khoa học hướng dẫn:
- GS. TS Nguyễn Minh Đoan,
- TS Thái Kim Liễu.
ĐIỀU
SƠ ĐẲNG
Để
thảo luận một đề tài, cần hiểu đúng những khái niệm và những định nghĩa liên
quan. Trong luận án “Nghĩa vụ con người trong Pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt
Nam” có ba từ được tác giả sử dụng rất nhiều lần: “con người”, “quyền con
người” và “nghĩa vụ con người”, do vậy chúng cần được hiểu thống nhất.
-
“Quyền Con Người” đã được khẳng định trong một văn bản quan trọng bậc nhất của
nhân loại thời nay. Đó là bản Tuyên Ngôn Phổ Quát về Quyền Con Người(Universal Declaration of Human Rights (UDHR), từ năm
1948 đã được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua và cho lưu hành rộng rãi toàn
cầu (universal), nay vẫn giữ nguyên giá trị. Dễ hiểu: Chỉ có Đại Hội Đồng Liên
Hợp Quốc mới đủ thẩm quyền sửa đổi lời văn, nội dung và ý nghĩa của văn bản
này.
Cụ
thể, "quyền con người” là quyền đương nhiên, bẩm sinh, dành cho mọi
“con người“, mà “đối tượng thụ hưởng” không cần đền đáp bằng bất cứ nghĩa vụ
nào khác.
- “Con người” (tiếng Việt) được dịch từ “human beings” (Anh) và êtres
humains (Pháp) trong văn bản nói trên. Từ này được sử dụng ngay ở Điều
1 và chỉ cần được sử dụng một lần, để nói (một cách bao trùm) rằng: mọi
con người đều được hưởng mọi quyền ghi trong Tuyên Ngôn. Vì sao như vậy?
Vì khái niệm “con người” là mặt đối lập với khái niệm “con vật”. “Quyền
con người” là từ ngữ dùng dể phân biệt địa vị con người so với địa vị con vật.
Do
vậy, “con người” có định nghĩa và nội hàm rất xác định, phải được
tôn trọng, nhất là khi sử dụng nó trong nghiên cứu khoa học và phát ngôn chính
trị. Trong luận án nói trên, tác giả đã hàng trăm lần sử dụng từ “con người” lại
càng phải ứng xử như vậy.
-
Ngoài ra, ngay từ cấp II, học sinh nước ta khi học môn Giáo dục Công dân đã được
thày giáo, cô giáo dạy về Quyền Con Người (nhân quyền). Bài này mong góp phần
giúp các cháu nhận thức tốt hơn khái niệm này, thể hiện ở cách viết. Mong bạn đọc
cùng chia sẻ với thế hệ trẻ nước ta, để họ trở thành những “CON NGƯỜI”
đúng nghĩa, đặng thật sự làm chủ đất nước này.
Khối
tem kỷ niệm chẵn 40 năm Tuyên ngôn quyền con người do Liên Hợp Quốc phát hành
I.
KHÁI NIỆM “CON NGƯỜI”: BƯỚC TIẾN LỚN CỦA TƯ DUY
Điều
1 của Bản Tuyên Ngôn Phổ Quát về Quyền Con Người viết:
-
All human beings are born free and equal in dignity and rights (tiếng Anh)
-
Tous les êtres humains naissent libres et égaux en dignité et en droits (Pháp).
-
Dịch sang tiếng Việt: Mọi con người sinh ra đều tự do và bình đẳng về
nhân phẩm và các quyền (Việt).
1. Human
Being (tiếng Pháp: Êtres Humain): hàm nghĩa rất rộng
a)
Nghĩa trực tiếp của thuật ngữ này là những “thực thể” (beings - đang tồn
tại)mang tính chất “người” (tính từ human). Nó hàm nghĩa rất rộng, không bỏ
sót bất cứ ai: Đó là mọi con người đang sống, từ sơ sinh tời khi chết, mà không
liên quan tới mọi chi tiết kèm theo (như: chủng tộc nào, quốc tịch nào, giới
tính nào, tôn giáo nào)… đều là “con người”.
b)
Do vậy, định nghĩa “con người” cũng phải phù hợp với khái niệm
Trên
hành tinh này, từ nhiều triệu năm trước đã có nhiều loài người khác nhau xuất
hiện, sau dó mất đi. Loài còn lại tới nay là Homo Sapiens (có mặt từ khoảng
200.000 năm trước). Dựa vào đây, từng có một trong những định nghĩa “con người”:
Đó là mọi cá thể đang sống, thuộc loài Homo Sapiens.
Đây
là khái niệm được hình thành khi phân biệt “con người” với “con vật”.
c) Điều
1, bản TNQCN sử dụng “human beings” là có chủ đích
-
Từ Human Beings được sử dụng để nói lên đối tượng rộng rãi nhất được hưởng các
quyền ghi trong Tuyên Ngôn: Mọi con người sinh ra đều tự do và bình đẳng
về nhân phẩn và các quyền (All human beings are born free and equal in
dignity and rights). Khác con vật, “con người” được ban lý trí và lương tâm, do
vậy cần đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ.
- Điều
1 (nguyên văn tiếng Pháp): Tous les êtres humains naissent
libres et égaux en dignité et en droits. Ils sont doués de raison et de
conscience et doivent agir les uns envers les autres dans un esprit de
fraternité.
Xin
lưu ý:
Từ điều thứ hai trở đi, khi nói về những quyền cụ thể, TNQCN không dùng human
beingsnữa, mà dùng (ví dụ) everyone hoặc no
one shall be…
Vài
kết quả tra cứu: “Con người” là gì?
1) Human
being means any member of the species homo sapiens from
fertilization until death; Dịch: Con ngườilà bất kỳ thành
viên nào của loài homo sapiens kể từ khi nó được thụ thai tới khi chết.
2) Human being: a man, woman, or child of the
species Homo sapiens, distinguished from other animals by superior mental
development, power of articulate speech, and upright stance (theo The Oxford
Pocket Dictionary of Current English). Dịch: Con người: bất
kể tuổi và giới, miễn là thuộc loài Homo sapiens, được phân biệt với các loài động
vật khác nhờ sự phát triển trí tuệ vượt trội, khả năng nói rõ ràng và dáng đứng
thẳng.
3)
Muốn hiểu đầy đủ “Con người”, xin mời đọc bài rất dài: What
a human being is. Link: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3814511/
4)
Một bài tiếng Việt, dễ hiểu, thích hợp với trình độ học sinh cấp II.
Tên bài: HUMAN BEING LÀ GÌ. Xin mời các cháu tìm đọc.
2.
“Con Người” tách khỏi giới động vật nói chung
-
Từ cái thuở mọi loài động vật đều “ăn lông, ở lỗ”, chưa biết dùng lửa, chỉ có
tiếng kêu thay vì tiếng nói… thì chưa thể xuất hiện khái niệm “con người”.
Trong thế giới sống (sinh giới) lúc này chỉ có động vật và được phân biệt với
thực vật.
Khái
niệm “con người” chỉ ra đời khi một loài động vật có khả năng tự ý thức về sự tồn
tại của bản thân nhờ tự so sánh địa vị của mình với địa vị con vật. Có lẽ đó là
thời điểm từ 12 ngàn năm trước đây, khi con người bắt đầu biết trồng trọt và
chăn nuôi nhờ khả năng chinh phục và thuần hóa các loài cây dại và thú hoang -
mặc dù lúc này con người vẫn thua kém nhiều con vật khác về sức mạnh cơ bắp, độ
tinh nhạy của các giác quan, khả năng tấn công và tự vệ...
Dẫu
vậy, con người vẫn tự thấy mình có những ưu thế về trí tuệ, đủ để khuất phục
các con vật khác mạnh mẽ hơn và dữ tợn hơn mình. Và tự ý thức rằng mình thuộc về
một loài khác hẳn mọi loài.
Con
người cổ xưa đã biết tổ chức săn hổ, làm bẫy hổ, đồng thời cũng biết rằng không
khi nào có chuyện loài hổ bàn nhau cách… săn người. Thời đó, con người đã thuần
hóa trâu bò... mà không có chuyện trâu bò thuần hóa con người. Qua đó, ta thấy
vai trò quyết định nhất của trí tuệ khiến “con người” tách khỏi phần còn lại của
giới động vật, trở thành chúa tể trong sinh giới.
Tóm
lại, khái niệm “con người” ra đời là bước tiến lớn trong tư duy nhân loại.
3. “Con
người” song tồn với “con vật”
Đây
là sự song tồn biện chứng của hai khái niệm ngang hàng nhau và đối lập nhau.
Như vậy, “con người” là khái niệm rất chung, rất rộng – gồm mọi cá thể trong
nhân loại, mà chưa cần phân biệt sự khác nhau giữa các cá thể. Nói khác, khái
niệm “con người” chỉ song tồn với khái niệm “con vật” (cũng rộng không kém) –
và cùng tồn tại như hai mặt của một đồng xu (tiền kim loại). Đó là cách hiểu
khái niệm trên bình diện triết học và khi bàn luận về “con người” cũng phải hiểu
như vậy.
4. “Con
người” không song tồn với “công dân” (như
quan niệm trong luận án của tác giá Vương Tấn Việt)
Do
vậy, rất khác nhau giữa “con người” và “công dân”, vì “công
dân” chỉ song tồn với “nhà nước” – cả hai chỉ là những bộ phận trong
nội bộ những “con người”. Ấy vậy mà, ở trang 38 luận án, tác giả nhầm lẫn
con người với công dân. Thậm chí còn bàn tới nhiều loại công dân khác nhau… Đây
là sai lầm từ gốc, khiến mọi cành, nhánh mọc ra đều sai.
Ở
trang 38 luận án, tác giả viết(nguyên văn):
Trong
thực tế cuộc sống, khái niệm "Con người" rất phức tạp.
Cùng
là con người nhưng có rất nhiều hạng người khác nhau cùng tồn tại, có người
nghèo - người giàu… có người tài - người bất tài, người đạo đức - người ác độc,
người có năng lực hành vi dân sự - người mất năng lực hành vi dân sự, người tận
tụy cống hiến - người lười biếng, thụ động… Và theo lẽ công bằng, người có công
phải được khen thưởng, người có tội phải bị trừng phạt, còn người không làm gì
sẽ bị quên lãng.
Đã
tạm đủ để thấy tác giả luận án đã lẫn lộn “con người” với “công dân”
Xin ngừng trích
5.
Trầy trật xác định vị thế “chúa tể” trong sinh giới
Con
Người chính thức xuất hiện trong giới động vật từ rất lâu, ít nhất từ khi biết
thuần hóa con vật, mở ra nền kinh tế chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Nhưng
con người tự ý thức về địa vị chúa tể của mình trong sinh giới lại rất muộn. Và
rất chật vật. Xin nêu một ví dụ. Thời xa xưa, tổ tiên chúng ta sợ hổ tới mức thờ
con hổ (treo tranh hổ, phía trước đặt bát hương và khấn “Ông Ba Mươi”). Tiếp
đó, thờ cả những người hy sinh do dám đánh hổ, bảo vệ dân làng. Rồi đề cao những
anh hùng diệt hổ, thậm chí “tay không giết hổ”… Cứ thế, tới khi chủ động vào rừng
săn hổ. Món “cao hổ cốt” trở thành nhu cầu cần đáp ứng. Và nay phải ra Luật “cấm
giết hổ” để chúng khỏi bị tiệt chủng. Như vậy, sự nhận ra địa vị chúa tể của
con người là một quá trình không hề ngắn.
II.
“Quyền Con Người”: Bước tiến cực lớn về tư duy
Vâng,
con người là chúa tể trong sinh giới, nhưng thể hiện bằng gì? Trả lời:
Thể hiện bằng các quyền, gọi là “quyền con người”. Dứt khoát, mọi động vật
không bao giờ có những quyền này khi chúng đối diện với con người.
1. Đây
là một trong những ý tưởng vĩ đại làm thay đổi thế giới
Cách
nay ít năm, hãng CNN lấy ý kiến mọi người để chọn ra những ý tưởng vĩ đại có tác dụng “làm thay đổi thế giới”.
Trong 10 ý tưởng được đa số đề nghị, ý tưởng về “quyền con người” được xếp ở vị
trí thứ tư về tầm quan trọng.
Câu
hỏi dưới đây tuy đơn giản, nhưng không dễ trả lời ngắn gọn. Vâng, con người là
chúa tể trong sinh giới. Vậy (cụ thể) biểu hiện bằng gì?
Các
cháu học sinh cấp II có thể đưa ra hàng trăm câu trả lời không trùng lắp: Con
người có thể cưỡi voi, bắt khỉ làm xiếc, nuôi chó cảnh, mổ bò, xén lông cừu,
săn hổ, diệt chuột, nuôi ong lấy mật… Nhưng câu trả lời ngắn gọn nhất là: Con
người có mọi quyền khi đối diện con vật.
Quá
trình để nhân loại nhận thức đầy đủ về “quyền con người” kéo
dài tới… ngàn năm. Gần đây nhất, để khẳng định quyền tư hữu, cũng tốn tới
3 thế kỷ.
Đầu
đuôi thế này… Cụ John Locke (1632–1704) đang được ca ngợi suốt 2 thế kỷ là người
đầu tiên đề xuất tư hữu là quyền con người, bỗng dưng cụ Karl Marx
hiện ra, nói ngược lại (cho rằng tư hữu là tai họa của con người)
và đòi “xóa bỏ” nó (1848)… Chỉ riêng cuộc cọ sát tư tưởng (có cả đổ máu, xảy ra
năm 1917) giữa các tín dồ của hai Cụ cũng kéo dài đúng 100 năm chẵn
(1848-1948), kết thúc bằng sự kiện Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chính thức
coi tư hữu là “quyền con người”, ghi hẳn hoi ở điều 17 trong một văn bản lịch
sử. Tính ra, nhân loại tiêu tốn tới 3 thế kỷ, chỉ để xác định một quyền cụ thể
của “con người”.
Ấy
thế mà sang thế kỷ XXI, người lớn vẫn cứ lơ tơ mơ giữa xóa bỏ tư hữu hay tôn trọng
tư hữu (cái nào phù hợp quy luật), trách gì các cháu học sinh?
Bản
Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền Con Người được Liên Hợp Quỗc thông qua năm 1948
2.
Khái niệm “ba Quyền Cơ Bản”: Bước tiến này còn xa hơn nữa
Ba
quyền là: Quyền sống, quyền tự do và quyền tư hữu. Chưa kể các quyền nhánh
khác.
- Quyền
sống. Dù con người là chúa tể, nhưng con vật cũng muốn sống. Vì đó là bản
năng. Vấn đề là bên nào có quyền sống (?) khi cần phân xử. Vậy thì, chỉ có con
người có quyền phân xử, còn con vật chưa hề cãi lại. Vậy là xong.
Nhưng
muốn sống thì trước tiên là phải ăn. Thức ăn của con người (và mọi con vật) chỉ
có thể khai thác ở sinh giới. Như vậy, con vật đành phải “mất quyền sống” mỗi
khi đối diện với con người, nhất là những con người đang cần ăn để sống. Trái đất
đang có 8 tỷ con người mỗi ngày phải tước đoạt mạng sống của hàng triệu con vật,
mà không phải do thù hằn gì hết.
-
Trong sinh giới, chỉ con người mới có quyền sống. Còn chuyện “sống như thế
nào” (ví dụ sống trong môi trường trong lành, hoặc sống hạnh phúc) là
chuyện trong nội bộ những con người – liên quan quyền công dân. Nó
liên quan tới quyền tư hữu (để cá nhân con người có điều kiện
“tự mình mưu cầu hạnh phúc cho mình”). Nó thuộc đề tài khác, hẹp hơn.
-
Hiến pháp nước ta (ghi ở chương Quyền Con Người) có câu: “Con người có quyền
sống trong môi trường trong lành”… Có hai điều cần làm rõ:
a)
Ghi như vậy nhưng Nhà Nước có thực hiện nổi không?
b)
Câu ấy nghe nó cứ lạc đề thế nào ấy. Đang bàn chuyện quyền con người,
lại nhầm lẫn sang quyền công dân. Đây là nhầm lẫn thật hay cố ý?.Trả
lời câu hỏi này tùy thuộc dân trí...
Nếu
con vật đã mất quyền sống, cũng mất luôn cả quyền tự do. Hãy nhìn đàn bò được
chăn nuôi rất chu đáo, nhưng răm rắp tuân lệnh. Chúng sinh sôi, béo tốt, phởn
phơ… nhưng để cung cấp sữa, thịt, da, lông… cho con người. Những thứ này vốn là
tư hữu của con vật, nay mất nốt sau khi mất tự do.
-
Khi quyền sống đã dược xác lập, đương nhiên con người (vị chúa đang sống) có thể…
“muốn làm gì, cứ làm”. Đó là quyền tự do. Con người thời
nguyên thủy hoàn toàn tự do. Nhưng đó chỉ là nói về nguyên tắc. Quả thật, khi
xưa chẳng ai cấm con người giết con hổ. Khốn nỗi, cái thuở xa xưa ấy, con người
rất nghèo tư hữu, do vậy không thể làm bất cứ điều gì theo ý muốn của mình. Muốn
giết con hổ, ít nhất con người phải tư hữu thứ vũ khí nào đó thích hợp. Muốn chế
tạo vũ khí, cần tư hữu trí tuệ, mà thời xưa con người chưa tích lũy đủ… Thiếu
quyền tư hữu đồng nghĩa với thiếu quyền mưu cầu hạnh phúc.
-
Té ra, quyền tư hữu (quyền thứ ba) có mối “liên quan
ngược” với quyền tự do và quyền sống. Do vậy, chúng là một khối liên kết, liên
hệ, bện vào nhau, không chia tách… Chỉ những bộ óc vĩ đại của nhân loại mới đề
xuất được “ba quyền cơ bản” mà không phải hai, hay bốn, năm, sáu… quyền. Từ ba
quyền cơ bản, hậu thế phát triển thêm những quyền nhánh khác.
III-
“Bịa” chuyện để giúp hậu thế hiểu bản chất "Quyền Con Người”
Tác
giả những chuyện (bịa) này quả là con người vĩ đại. Chính do vậy hàng tỷ người
đang chắp tay kính cẩn, cúi đầu khâm phục và thành tâm cầu nguyện. Cứ cho rằng
đó là chuyện tưởng tượng, nhưng óc tưởng tượng chính là bước tiến khổng lồ về
khả năng tư duy của con người – mà không con vật nào có được. Chứ sao?
1.
Đại
khái, câu chuyện thế này…
-
Đấng Tạo Hóa (Creator - God) với quyền năng vô biên đã dùng đất sét nặn ra muôn
loài. Phải tạo ra thực vật trước để làm thức ăn cho động vật. Tới khi nặn giới
động vật, Ngài vẫn rất sáng tạo, nhưng cũng không kém lơ đãng và tùy hứng. Do vậy,
mặt đất có vô số loài động vật khác nhau. Loài cuối cùng, tuy cũng là động vật,
nhưng được Ngài dùng chính hình mẫu của mình để tạo ra (có lẽ, vừa soi gương, vừa
nặn?)… Đó chính là loài người – một loài động vật có ngoại hình giống như hình
mẫu của đấng Tạo Hóa; do vậy, nó được Ngài ban thêm:
-
trí tuệ: để ngày càng khôn ngoan, làm gì cũng có mục đích…
-
lòng tin: để tin rằng đấng Sáng Tạo là có thật và từ đó có Tôn Giáo.
- quyền lực: để thống trị các loài khác.
Thế
là một con vật biến thành Con Người, từ đó, tự biết viết hoa tên
mình.
Tranh
minh họa. Đấng Tạo Hóa đã nặn gần xong giới động vật.
Nay
Ngài bắt đầu tạo ra loài động vật cuối cùng (hình lấy từ internet)
Do
vậy, khi đứng trước mọi động vật, thì quyền lực Con Người là đương nhiên, là vốn
có, bẩm sinh, do Đấng Tạo Hoa ban cho, chứ không phải do các động vật khác tự
nguyện chuyển nhượng cho. Do vậy, Con Người không cần có bất cứ nghĩa vụ gì với
các động vật khác – để đánh đổi lấy những quyền lực này.
Con
người không mang ơn con vật, mà ơn Đấng Sáng Tạo. Xin hãy cân nhắc mỗi khi nói
hoặc viết “nghĩa vụ con người”…
2.
Nhưng...
chuyện dưới đây không do tưởng tượng, mà có thật
-
Một người Mỹ (có thật, thế giới đều biết: Thomas
Jefferson) nói một câu “có thật” trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước mình
năm 1776 (Lịch Sử còn lưu): “Chúng tôi khẳng định những sự thật này là đương
nhiên: Mọi người sinh ra bình đẳng, đều được Tạo Hoá ban cho những quyền tất yếu,
bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thế
là rõ: Cách mạng tư sản coi Quyền con người là tất yếu, hiển nhiên (mà
không cần chứng minh), và không cần đánh đổi bằng bất cứ nghĩa vụ nào, với ai…
Mạng sống của mỗi con người là tài sản (tư hữu) lớn nhất của người đó.
Đứa
trẻ sinh ra, chỉ cần “oe oe” mà chưa cần thực hiện bất cứ “nghĩa vụ” gì… đã có
quyền sống và các quyền khác, vì nó là “con người”. Nói “nghĩa vụ con người” với
nó, không chừng nó mắng cho vài mắng!.
-
Một người khác ở Việt Nam là Hồ Chí Minh, cũng có thật, cũng sử dụng
ý tưởng của câu trên, cũng tuyên bố nhân ngày Độc Lập (02-9-1945) của nước
mình: "Tất cả mọi người sinh ra bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Hồ
Chí Minh, dù chỉ ở Mỹ một năm (1912 - 1913) - so với ba chục năm bôn ba sau đó
- và dù đã tiếp xúc biết bao chủ nghĩa đẹp đẽ, cùng các giá trị tinh thần cao cả
khác, nhưng vẫn nhận ra những giá trị vĩ đại và vĩnh hằng mà toàn nhân loại sẽ
mãi mãi theo đuổi. Đó là tôn trọng Quyền Con Người.
Hồ
Chí Minh là đảng viên cộng sản sớm nhất của Việt Nam (năm 1920). Nhưng cũng sớm
nhất ở Việt Nam, nhà cách mạng này đã nhập vào tim óc mình cái đặc trưng nhất của
cách mạng tư sản và chỉ cần nói ra một lần cho mãi mãi mai sau. Đó là nói đúng
vào ngày Tuyên Ngôn Độc Lập. Muốn học tập cụ Hồ, phải thực học những tư tưởng
này!
IV.
VĂN BẢN QUAN TRỌNG BẬC NHÂT CỦA NHÂN LOẠI
-
Đó chính là Văn bản khẳng dịnh “Con Người có những quyển bẩm sinh”.
Nó
chính thức ra đời lúc khuya ngày 10, rạng ngày 11 tháng 12-1948, với cái tên
(tiếng Anh) Universal Declaration of Human Rights (UDHR), đến
nay đã được dịch sang > 500 ngôn ngữ (over 500 languages). Chưa có văn bản nào được dịch
sang nhiều thứ ngôn ngữ đến vậy – kể cả Kinh Thánh Cơ Đốc, Kinh Thánh Marx
(Tuyên Ngôn CS), Kinh đạo Hồi của đức Ala, Kinh đạo Phật...
Liệu
có nên coi Universal Declaration of Human Rights (UDHR) là kinh thánh của nhân
loại, với số tín đồ tới 8 tỷ người? Nếu được vậy, sẽ không ai dám bóp méo,
xuyên tạc và chần chừ thực thi nó. Nếu quyền sống được tuyệt đối tôn trọng, lập
tức sẽ chấm dứt mọi cuộc chiến tranh…
-
Văn bản dành cho từng con người
Nó
tồn tại dưới dạng (đến nay là) 530 ngôn ngữ khác nhau, hẳn là phải có mục đích,
thể hiện ở tính từ universal. Universal dịch sang tiếng Việt thành
“quốc tế” là chưa lột tả được hết ý nghĩa mà tập thể soạn thảo
mong muốn. Tôi dịch là “phổ quát” cũng tự thấy chưa vừa ý. Bởi vì, các
tác giả soạn thảo dùng universal với kỳ vọng bản Tuyên Ngôn này sẽ len lỏi tới
khắp mọi “hang cùng, ngõ hẻm” trong mọi quốc gia, mọi khu vực… để bất cứ ai,
thuộc bất cứ nhóm nhỏ nào, sống ở bất cứ nơi hẻo lánh nào, nói bất cứ thứ ngôn
ngữ thiểu số nào… đều biết rõ: Cá nhân mình đương nhiên có những quyền gì, để xứng
đáng là một “CON NGƯỜI”.
Cách
ngụy biện nào để thuyết phục “quyền con người” phải kèm “nghĩa vụ”?
Xin
đưa hai cách của tác giả Vương Tấn Việt:
1-
Dựa vào ý kiến củaJeremy Bentham – là người quyết liệt phản
đối khái niệm “quyền tự nhiên”. Đây là nhân vật tiến bộ và lừng lẫy, nhưng… từ
ba thế kỷ trước. Mọi người có thể bày tỏ quan điểm (tán thành hay không) với ý
kiến của Jeremy Bentham. Tuy nhiên, cho tới nay vai trò quyết định về
cách hiểu “quyền con người” và “quyền tự nhiên” vẫn thuộc về Đại
Hội Đồng LHQ.
- Tác giả luận án tự ý đưa ra quan điểm cá nhân (nguyên văn):
Quyền
tự nhiên xuất phát từ tiềm thức từ thời hồng hoang, khi mà dân số còn thưa thớt,
tài nguyên còn dồi dào, rừng hoang còn mênh mông, con người được tự do chiếm hữu
các lợi ích từ thiên nhiên mà vẫn không xung đột nhau.
Đến
khi cộng đồng xã hội phát triển, dân số đông lên, con người không còn muốn lấy
gì thì lấy, muốn làm gì thì làm theo ý riêng của mình nữa, mà phải theo quy định
chung (pháp luật) để tránh xung đột với nhau. Lúc này, khái niệm Quyền
con ngườiphải là do quy định của pháp luật chứ không còn là tự nhiên như
ngày xưa nữa.
Hết trích.
Đề
nghị
1-
Xin tác giả hiểu cách đơn giản, mà không cần lập luận vòng vèo, thiếu cơ sở, để
cố ý đi đến mệnh đề cuối, rất sai, như ở đoạn văn trên (Lúc này, khái niệm Quyền
con người phải là do quy định của pháp luật chứ không còn là tự nhiên
như ngày xưa nữa).
.
2-
Lập luận của tác giả về “quyền tự nhiên”. Thế này ạ. Mặt đối lập của “quyền
tự nhiên” là “quyền hợp pháp” (hai mặt của đồng xu).
Vậy,
“quyền tự nhiên” là quyền đương nhiên của con người khi tranh chấp với
con vật. Ví dụ, Quyền sống là quyền tự nhiên (của
con người).
Còn
“quyền hợp pháp” do pháp luật quy định, đó là các quyền công dân,
là chuyện nội bộ những con người với nhau. Ví dụ, quyền sống trong môi trường
an toàn.
Nhận
xét
Thật
kỳ lạ! Tại sao các Thầy ở trường đại học Luật (Hà Nội) không giảng giải cho
nghiên cứu sinh của mình, về những sai lầm rất dễ thấy?
Chỉ
cần minh bạch hai mối quan hệ:
-
Trường hợp con người đối diện con vật: Con người có toàn quyền. Gọi đó là “quyền
tự nhiên” hay “quyền con người” tùy theo sự đồng thuận.
-
Trường hợp quan hệ giữa những con người với nhau: Lúc này, con người cần đặt ra
pháp luật để ứng xử phù hợp với nhau (ví dụ, công dân có quyền này, mà không có
quyền kia; hoặc có nghĩa vụ này hay nghĩa vụ khác).
Không
được để các cháu học sinh lẫn lộn hai mối quan hệ này.
(Còn
nữa)
No comments:
Post a Comment