Thursday, October 14, 2010

HAI TIẾNG "CÁCH MẠNG" THIÊNG LIÊNG ẤY (Phần một) - LƯU HIỂU BA

Lưu Hiểu Ba
Trần Quốc Việt dịch
02/05/2010 | 6:05 sáng
Hy sinh trước bàn thờ chính nghĩa
Theo đuổi những thay đổi ngoạn mục, đáng kinh ngạc tất dẫn đến sự khuấy động tình cảm quá khích. Đỉnh cao của sự sôi nổi tình cảm quá khích là sự từ bỏ tập thể sinh mệnh của mình cho các hành động anh hùng. Vì cuộc đua tài, vì dân chủ, vì tự do, chúng ta sẵn sàng tiến đến bàn thờ của chính nghĩa – rồi đến của hy sinh. Trong tháng Năm năm 1989, sinh viên tổ chức một đợt tuyệt thực tập thể với hơn một ngàn người tham dự. Phong trào không được hướng dẫn bởi lý tưởng của bất kỳ cá nhân nào mà bởi chủ nghĩa quá khích tình cảm. Bất kỳ ai quá khích đều trở thành đối tượng chú ý của mọi người. Khắp nơi -trong những lời tuyên bố của các sinh viên tuyệt thực và trong những lời tuyên bố của mỗi nhóm ủng hộ những người tuyệt thực, trong “rừng” biểu ngữ và trong các khẩu hiệu, trên những áo thun của các sinh viên tuyệt thực đeo khăn tang trắng trên đầu -ta có thể thấy những dòng chữ này: “Chúng ta làm nên lịch sử bằng sinh mệnh của mình”; “Chúng ta dùng chính dòng máu tươi của ta để mở đầu một kỷ nguyên mới cho nhân dân Trung Quốc”; “Vì thế hệ tương lai ta nhất định không tiếc gì cả”; “Máu rơi trên cổng thành của tổ quốc là lệ tưới cho đất màu mỡ”; “Thà chết còn hơn không có tự do”. Tại những trung tâm chỉ huy của sinh viên ở Quảng trường, họ liên tục phát thanh lời thề: “Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng tự do dân chủ bất diệt”. Nhạc điệu buồn bã của bài hát chính thức, “Quốc tế ca”, của Đảng Cộng sản Trung Quốc; bầu không khí tử vì đạo càng lúc càng nặng nề; và tinh thần hy sinh tất cả quyện lẫn vào nhau hoàn toàn. Từ viết thư bằng chính máu mình rồi đến viết di chúc, các sinh viên qua đó đo lòng quyết tâm của mình cho sự nghiệp bằng những cái chết được thêu dệt ra. Hình ảnh xả thân vì chính nghĩa này làm xúc động mọi người ở Quảng trường. Tiếng hú còi sầu thảm của các xe cứu thương tưởng như xé trời xanh báo hiệu trước cái chết có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Các xe cứu thương, đèn đỏ loé sáng, chạy hối hả trên con đường “huyết mạch” do các sinh viên trong các đội trật tự công cộng (giăng tay nối nhau) tạo ra. Vẻ mặt của những người gần chết nằm trên cáng, cảnh các bác sĩ trong áo choàng trắng, cảnh các y tá la to và ra dấu cho đám đông “tránh ra” – hết thảy đều chứng minh tấn bi kịch của sự hy sinh sinh mệnh tập thể. Tình cảnh cảm động của mười hai sinh viên Trường Kịch Trung ương nhịn uống nước vượt trội hơn cả tình cảnh của những người tuyệt thực, do thế, mười hai sinh viên này trở thành những thần tượng trên Quảng trường. Qua mọi phương tiện tuyên truyền, và nhờ đám đông chứng kiến, họ được nâng cao lên và rồi được đặt lên trên bàn thờ của sự hy sinh vì chính nghĩa để nhấn mạnh đến cảnh chết cho chính nghĩa này. Hình ảnh đẹp nhất và xúc động nhất này của Trung Quốc ở cuối thế kỷ hai mươi đã thoả mãn mặc cảm chết cho chính nghĩa tiềm tàng quá lâu trong lòng người dân. Nếu như một vài sinh viên đòi tự thiêu không được thuyết phục từ bỏ hành động như thế, những ngọn đuốc sống chết cho chính nghĩa sẽ thật sự thắp sáng trên Quảng trường, và lời dạy đạo đức thánh hiền từ xưa, “huỷ mình để giữ trọn khí tiết”, ngày nay ắt vẫn còn có ý nghĩa.
Hành vi hiến thân cuồng tín này và tinh thần hy sinh này xuất phát từ ý nghĩa sứ mệnh cao cả mà xã hội ban cho sinh viên. Những sinh viên trẻ này, cảm nhận mình được toàn xã hội ủng hộ, cảm thấy mình là hiện thân của chính nghĩa. Hơn nữa, những người dân trong mọi tầng lớp xã hội cũng đều tôn kính họ như hiện thân của chính nghĩa. Khi ý thức chính nghĩa này càng ngày càng trở nên cực đoan hơn, ngoại trừ chính quyền lòng dạ sắt đá, không có ai còn đủ tỉnh táo để tự hỏi: kết cục của những biểu hiện cực đoan này rồi sẽ đi về đâu? Như thể toàn bộ xã hội đã khẳng định, qua các hành động của họ, những sinh viên trẻ nên đứng ra gánh vác trên đôi vai tập thể của họ trách nhiệm thiên định, to tát là hãy cứu Trung Quốc ra khỏi nanh vuốt của bạo quyền. Ý nghĩa sứ mệnh bị phóng đại và ý nghĩa hùng tráng về cảnh mình đang-làm-nên lịch sử đã khiến sinh viên mất khả năng tự kiềm chế và tự biết mình. Họ không biết là đôi vai non của họ hoàn toàn không thể gánh vác một trách nhiệm nặng nề đến như thế. Bị lôi cuốn trước sức quyến rũ chính nghĩa càng lúc càng mạnh, các sinh viên, qua việc thế chấp sinh mệnh của mình, đã khai chiến một cuộc kháng cự liên tục leo thang và vô ích chống lại chính quyền. Tưởng chừng như chỉ qua hy sinh tính mạng của mình ta mới làm cho chính quyền động lòng, chỉ qua hành động xả thân ta mới có thể làm cho quần chúng thức tỉnh, và chỉ qua cái chết ta mới đạt được chính nghĩa hay mới có đủ tư cách để tượng trưng cho chính nghĩa. Cho nên không lạ gì là sau khi nghe một số người chỉ trích các sinh viên là đã quá hăng và quá dũng cảm khiến lý trí và phán xét bị lu mờ, Sài Linh, thủ lãnh cao nhất ở Quảng trường và sau này đã trốn thoát được ra nước ngoài, đáp lại với vẻ bình thường: “Tại Quảng trường vào thời điểm đó dũng cảm đơn thuần là tiêu chuẩn”. Điều đó có nghĩa là, hãy đừng màng đến hiện thực, hãy từ bỏ lý trí, chúng ta chỉ cần dũng cảm, chỉ cần sẵn sàng hy sinh quên mình; chúng ta là những hào kiệt của phong trào phản đối năm 1989. Điều đáng tiếc là, sau khi phong trào phản đối năm 1989 bị trấn áp bằng lưỡi lê và xe tăng, người ta đọc lướt qua danh sách những người lãnh đạo trong phong trào ngày Bốn tháng Sáu nhưng chẳng tìm thấy dù chỉ một Đàm Tự Đồng đương thời. Những ai được tôn là anh hùng trong những khoảnh khắc hồi hộp nhất của phong trào cũng như những ai lãnh đạo xem mình là anh hùng, sau ngày Bốn tháng Sáu, đều lần lượt bị xử ở toà án của đạo lý và lẽ phải. Nhân dân không thể nào chịu đựng nổi sự thật là cả nước đã chờ đợi một bậc anh hùng chết cho chính nghĩa thế mà chẳng thấy xuất hiện một ai. Nhiệt tình của chúng ta đã hoài phí. Máu của chúng ta đã đổ ra vô ích.
Trong sự theo đuổi xả thân này và trong tâm lý tập thể của sự chờ đợi một đấng anh hùng hy sinh vì chính nghĩa, ta có thể thấy sự thành công to lớn về xã hội hoá Đảng Cộng sản. Thấy được phong thái của những người nối gót theo những tiền nhân chết cho chính nghĩa, người ta không thể nào không nghĩ đến những đảng viên Đảng Cộng sản, những người, vì sự ra đời của nước Trung Quốc mới, đã hoạt động bí mật trong những thời kỳ dài. Lời bào chữa được viết ra từ trong tù của Vương Đào Quân và Trần Tử Minh, trong đó cả hai đều đề cập đến những hành động đáng khâm phục trong sự nghiệp chân chính mà thế hệ trước của Đảng Cộng sản đã thực hiện trước ánh dao của đao phủ thủ có thể  được coi là các tấm gương cho thế hệ sau này. Bắt đầu từ lúc chúng ta vào trường tiểu học, chúng ta đã nghe những câu chuyện về Lưu Hồ Lan và Đổng Tồn Thụy[1]; chúng ta đã biết lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: “Sinh cao cả, tử vinh quang”. Bài ca đội thiếu niên tiền phong có tên là “Luôn luôn sẵn sàng”. Sẵn sàng cho cái gì? Sẵn sàng dâng hiến đời mình cho Đảng Cộng sản. Nói chung, do ở trường hay dạy là bầu máu nóng trong người nên sẵn sàng tuôn trào ra cho cách mạng, nên chúng ta tin rằng ta chỉ cần cống hiến đời mình và dũng cảm hy sinh mình là đủ để mang lại lẽ phải và công bằng cho mọi ngưòi (và chính lẽ phải này có thể đảm bảo cho ta lưu danh muôn thuở). Chúng ta chỉ không xem xét rằng tất cả những gì mà máu tươi và cái chết này đã thiết lập là một chính quyền chuyên chế, dã man. Mao Trạch Đông, hô hào tinh thần hy sinh và kêu gọi mọi người “thứ nhất, không sợ gian khổ, thứ hai không sợ chết”, thì cũng chẳng khác gì hơn là một tay bạo chúa giết người. Chúng ta đã không nhận thức ra rằng chính nghĩa này – được hình thành chính từ sự dại dột cống hiến đời mình và hy sinh đời mình- đã khiến chúng ta tin rằng để thực hiện một cuộc cách mạng, tất cả những gì chúng ta cần là can đảm chứ không phải phán xét; tất cả những gì chúng ta cần là nhiệt tình chứ không phải lý trí; quá khích chứ không phải thoả hiệp; cảnh tượng đẹp đẽ huy hoàng chứ không phải lưu tâm đến những sự việc đời thường. Nhận xét của Sài Linh “can đảm là tiêu chuẩn” có thể được hiểu ở nghĩa rằng dũng cảm là chính nghĩa hay, chính xác hơn, đó là chính nghĩa tự cho mình đúng làm ta tin chúng ta có thể tiến tới dân chủ mà không hiểu những trách nhiệm kèm theo của dân chủ, chúng ta có thể đòi hỏi tự do mà không hiểu trách nhiệm của tự do. Hay nói cách khác, chính nghĩa ấy khiến chúng ta hiểu dân chủ là nhiệt tình dâng hiến đời mình và dũng cảm hy sinh; hiểu dân chủ là nhiệt tình cao ngất, là cảnh tượng hùng tráng của các đám đông lớn, là vô vàn những khẩu hiệu. Đơn thuần là chúng ta không quen biết rằng dân chủ là sự thiết kế, thực hiện, vận hành của một hệ thống hợp lý. Dân chủ có mặt trái của nó. Dân chủ hoàn toàn không lãng mạn như lý tưởng chúng ta tán dương; dân chủ là đời thường, thậm chí tầm thường. Có lẽ chỉ qua học phí trả bằng máu chúng ta mới có thể ý thức được rằng can đảm không phải là chính nghĩa và kháng cự không phải là dân chủ.
Chính nghĩa của chuyện ta muốn làm gì thì làm
Trong bốn mươi năm, chúng ta đã không có bất kỳ trải nghiệm chính trị dân chủ nào; mắt và tai chúng ta chỉ nghe thấy toàn quá nhiều những cuộc đấu tranh tàn ác và những mưu chước thâm độc của chính quyền chuyên chế. Ngay khi chúng ta bắt đầu cuộc cách mạng của mình, chúng ta trở nên cực kỳ tự phụ – như thể chúng ta đã quay trở lại thời kỳ Cách mạng Văn hoá là khi chúng ta cảm thấy mình là những người cách mạng nhất. Rồi ngay khi chúng ta gia nhập vào phong trào phản kháng năm 1989, chúng ta lại tự xem mình là những người dân chủ nhất. Dù sao, phải chăng chúng ta đã không tuyệt thực vì dân chủ, hết mình vì dân chủ và hy sinh cho dân chủ? Điều này làm cho chúng ta càng chắc chắn hơn rằng hành vi của chúng ta có chính nghĩa cao nhất. Tiếng nói của chúng ta trở thành chân lý duy nhất. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta sở hữu quyền lực tuyệt đối. Chân lý trở thành điều tuyệt đối đúng mà không chấp nhận sự chất vấn; chính nghĩa trở thành chuyện ta muốn làm gì thì làm; dân chủ trở thành đặc quyền; Quảng trường trở thành một nơi kỳ diệu mà tại đấy chân lý được phán xét, quyết tâm được thử thách, tình cảm được tôi luyện, công lý được mở rộng, và các quyền con người được thực thi. Những kẻ không đến Quảng trường hay chỉ trích Quảng trường đều là lũ hèn nhát bất lương, chống dân chủ. Phong trào đã biến Quảng trường thành một tiêu chuẩn để phán xét mọi người. “Tôi đã ở Quảng trường một thời gian” và “Tôi đã từng đến Quảng trường” trở thành những mật khẩu của ý thức dân chủ và của lương tâm xã hội.
“Trước có cách mạng; giờ có dân chủ”. Thế là bây giờ chúng ta có thể làm những gì chúng ta thích. Quản lý sinh viên thay thế trật tự xã hội của đảng chính trị. Các đội trật tự công cộng trở thành công an giao thông. Thẻ sinh viên trở thành thẻ đa dụng – với thẻ này, chúng ta có thể đi xe không cần mua vé, đi ăn chẳng cần trả tiền, chặn xe lại tuỳ hứng, lục xét hay tra hỏi bất kỳ người đi bộ nào có vẻ khả nghi, tuỳ tiện phung phí tiền bạc do các công dân đóng góp, bất cần vệ sinh, khạc nhổ lung tung, xả rác tuỳ thích, đại tiện và tiểu tiện khắp nơi, thậm chí  cả trét phân người lên trên các cửa sổ của xe buýt công cộng và chả thèm quan tâm gì đến các thủ tục pháp lý. Chỉ cần con dấu của bộ chỉ huy Quảng trường, chúng ta có thể tuyên bố mình đã kết hôn- đây được gọi là “đám cưới dân chủ ở Quảng trường”. Chúng ta có thể tự ý phá hoại tài sản công cộng, xì hơi các lốp xe buýt công cộng, rồi tuyên bố một cách tự tin rằng làm như thế để đập tan âm mưu của chính quyền. Quảng trường Dân chủ thành Quảng trường nơi ta muốn làm gì thì làm. Đó là một Quảng trường mà mùi phân và nước tiểu bốc lên và lan ra nồng nặc; đó là Quảng trường nơi rác chất cao như núi.
“Trước có cách mạng; giờ có dân chủ”. Thế là bây giờ chúng ta không thể thoả hiệp hay hợp tác mà có thể thích thì tạo bè phái, lập ra các tổ chức, tự phong vương, thi nhau đặt tên các nhóm của chúng ta là Liên hiệp Tự trị Tối cao, Nhóm Tuyệt thực, Nhóm Đối thoại, Liên hiệp Tối cao Ngoại vụ, Liên minh các Nhà báo, Đội Quyết tử, Đội Phi hổ, Đội quân Tây lộ, Đội quân Thiếu nhi vân vân. Không ai chịu nhường ai, và không ai quản lý ai. Lời người xưa, “ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn” đã trở thành “ai cũng có thể trở thành chính khách”. Ai cũng có một triết lý chính trị riêng. Quảng trường, nơi nhìn vào ta tưởng chừng các đám đông đoàn kết như một, thực ra là nơi có nhiều chia rẽ, nơi ai cũng xem mình là một chính quyền có chủ quyền riêng biệt. Cho dù nếu có đạt đến thoả thuận, song nếu muốn ta chẳng cần phải tôn trọng thoả thuận ấy. Cho dù ta có đưa tay lên để bỏ phiếu tán thành một quyết định về đường lối, ta có thể bác bỏ quyết định ấy ngay khi ta rời khỏi nơi họp và rồi, nhân danh chính nghĩa, cuối cùng ta lại thực hiện quyết định ấy. Giữa các trường và giữa các tổ chức, có những bức tường không thể vượt qua được. Tâm trạng xem mình là người thông thái nhất này làm mọi người trong phong trào cực kỳ tự phụ. Giấy phép ưu tiên đường (right-of-way) trở thành dấu ấn đặc quyền. Những ai có quyền phân phát giấy phép ưu tiên đường dường như có quyền quyết định ai có thể gia nhập cách mạng và ai có đủ tư cách tham gia dân chủ. Phong trào của chúng ta tập hợp được rất nhiều người và đã khơi dậy nhiệt tình rất cao, song chúng ta không thể nào có những quyết định hợp lý về đường lối; chúng ta thấy mình rơi vào tình trạng mơ hồ về quyết định đường lối. Giá không phải vì chính quyền thường xuyên có những quyết định sai lầm, từ đó ta có cơ hội đoàn kết lại với nhau, chúng ta có lẽ thật sự trở thành một đám đông mù quáng không có phương hướng.
“Trước có cách mạng; giờ có dân chủ”. Thế là bây giờ lòng chúng ta có thể chất đầy căm thù, như ta cầm chiếc áo sơ mi đẫm máu mà tố cáo Đảng Cộng sản tàn ác; ta nghiến răng chửi mắng họ; ta chế giễu tính cách của kẻ khác; ta tham gia vào những cuộc đả kích cá nhân đầy ác ý. Chúng ta có thể nhiếc mắng ai đó là đồ ngu, ai đó là kẻ lùn tịt, ai đó là thứ ngốc nghếch. Chúng ta có thể tuyên bố xử bắn ai đó, luộc ai đó trong vạc dầu, chôn sống ai đó, bắt ai đó phải tự tử, bắt ai đó phải trở về nhà với gia đình; chúng ta còn nói xấu những ai không thuộc giống nòi của chúng ta. Thái độ của chúng ta là thô lỗ và vô lý, thậm chí đến mức chúng ta phải choảng lẫn nhau; chúng ta có thể mượn tên của chính nghĩa để bày tỏ những phàn nàn cá nhân không đáng; chúng ta có thể không thích chấp nhận bất kỳ những ai đứng ra làm trung gian bất kể địa vị hay cá nhân của họ, chúng ta có thể theo một đường lối cứng rắn không thoả hiệp, không khoan nhượng, và không hợp tác – quá khích mù quáng, hận thù mù quáng- đến nỗi phong trào phản kháng đã leo thang từ những yêu cầu sửa sai cụ thể, đến sự hận thù muốn lật đổ chính quyền và tống cổ Đặng Tiểu Bình đi. Đồng thời chúng ta tự đẩy mình vào một tình thế không có lối thoát, chúng ta buộc chính quyền, mà lập trường ban đầu của họ là đối thoại và thoả hiệp, vào hoàn cảnh chẳng đặng đừng là dùng quân đội đàn áp phong trào ôn hoà. Cùng với chính quyền, mà chịu trách nhiệm về tội ác bắn giết nhân dân, phải chăng chúng ta, “những chiến sĩ dân chủ”, những người rất tự tin về chính nghĩa của mình, những người góp phần tạo ra bi kịch đẫm máu cuối cùng ấy lại chẳng chịu trách nhiệm đạo đức nào hay sao? Căm thù, quá khích, không khoan nhượng – đây chính xác là những phẩm chất cách mạng Mao Trạch Đông đã kêu gọi một cách rất tự tin; đây chính xác là nơi tập trung toàn bộ cốt lõi của văn hoá chính trị đấu tranh giai cấp. Cách mạng phải được tiến hành một cách không giao động đến cùng. Bất kỳ ai ủng hộ triệt tiêu căm thù hay muốn đạt đến thoả thuận thông qua thoả hiệp và nhân nhượng là kẻ hèn nhát, là tên phản bội, hay là tên cướp có học vị. Kết quả là lời thề của chúng ta quyết tử để bảo vệ Thiên An Môn -quyết tâm của chúng ta để sống hay chết với Quảng trường -trở thành sự thương lượng, thoả hiệp, và rút lui ôn hoà lần cuối cùng khi mối đe doạ của tử thần thật sự đến.
“Trước có cách mạng; giờ có dân chủ”. Bây giờ, chúng ta nói láo thản nhiên, tung tin đồn ngay giữa thanh thiên bạch nhật; gặp những ai quan tâm liền khẳng định việc nói láo của mình là đúng; tuyên bố một cách vô trách nhiệm: “Đặng Tiểu Bình đã chết”; “Lý Bằng đã bỏ chạy”; “Dương Thượng Côn bị thương”;”Triệu Tử Dương đã trở lại”; “Vạn Lý đã lập chính phủ mới ở Canada”; “Mười hai cán bộ của Hội đồng Nhà nước đã tuyên bố rút lui ra khỏi chính phủ hiện nay”; “Quảng Đông và các khu tự trị thiểu số đã tuyên bố Độc lập”; “Binh đoàn Hai Mươi Bảy và Ba Mươi Tám bắt đầu giao chiến”; vân vân. Quảng trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, trở thành nơi hội tụ và phát tán các lời nói láo và các tin đồn. Lời nói láo càng láo thì càng được nói đến, còn tin đồn có nguồn gốc càng không chắc chắn thì bất ngờ trở thành lực đẩy của phong trào. Chúng làm cho những hành động quá khích dường như hợp lý hơn, nâng cao hy vọng chiến thắng hão huyền của nhân dân, và khiến chúng ta không tài nào biết được chuyện gì thực sự đang diễn ra ở Trung Quốc. Sau ngày 4 tháng Sáu, các “chiến sĩ dân chủ” chạy thoát ra nước ngoài đã cố ý bóp méo các sự việc để phóng đại lên sự tàn bạo và độc ác của Đảng Cộng sản và qua đó tạo cho mình hình ảnh anh hùng của những con người đã vượt thoát ra được cơn tắm máu; họ đã làm hoen ố bề mặt nhuộm máu của Quảng trường Thiên An Môn và lừa dối dư luận quốc tế. Dòng thời gian thăng trầm dần dần đã trả sân khấu ban đầu này lại cho lịch sử, và sau khi nhân dân có thể hiểu đúng phong trào phản đối năm 1989, những hậu quả tàn nhẫn cùng bi kịch do các lời nói láo và các tin đồn năm xưa tạo ra sẽ tan dần đi.
“Trước có cách mạng; giờ có dân chủ”. Chúng ta có thể coi trọng chỉ tự do ngôn luận của riêng mình thôi, trong khi đó tước đi ở những người khác quyền tự do ngôn luận này. Chúng ta chẳng khác gì Mao Trạch Đông trước đây, không cho phép tồn tại bất kỳ ý kiến nào khác với mình. Còn về các hành động của chúng ta, chúng ta chỉ có thể hình dung ra sự ủng hộ của những kẻ khác dành cho cho các hành động của chúng ta thôi; ngoài ra không ai có thể được chỉ trích các hành động của chúng ta. Về điểm này, giống công an Đảng Cộng sản, chúng ta buộc các nhà báo không được chụp những hình nào không có lợi cho chúng ta hay có thể tổn hại đến hình ảnh của chúng ta. Khi các nhà báo la to lên “tự do báo chí” và vẫn chụp hình, chúng ta liền giật phăng một cách thô bạo các máy ảnh từ tay các nhà báo, rồi mở máy ảnh rút phim đưa ra ngoài ánh sáng. Chúng ta đôi lúc còn đập tan tành các dụng cụ chụp hình của các nhà báo. Chúng ta chỉ nghĩ đến các quyền và sự an toàn riêng của mình. Bất kỳ hành vi nào đe dọa đến sự an toàn và các quyền của chúng ta, cho dù hành vi ấy có chính đáng hay hợp pháp, chúng ta đều quyết tâm chấm dứt nó. Để chính quyền không thể lợi dụng một hành động phá hoại tài sản công cộng như là cái cớ để đè bẹp phong trào, chúng ta đã áp giải ba người đã làm bẩn bức chân dung của Mao Trạch Đông treo tại Quảng trường đến sở công an, kết quả là họ bị Đảng Cộng sản kết án tù 20 năm, 18 năm, và 15 năm. Phải chăng họ đã không thực thi chính các quyền của họ? Phải chăng họ thật sự đáng ở tù?
Thậm chí điều bi kịch hơn cả là chính nghĩa tự cho mình đúng của phong trào phản kháng năm 1989 đã gần như là mối đe dọa cho mọi người. Những người có ý khiến khác biệt đều trở nên im lặng dưới áp lực của chính nghĩa tự cho mình đúng này. Những ai không dám nói khác và không muốn tham gia vào phong trào cuối cùng cũng xuống đường vì họ sợ bị xem là tên hèn nhát hay kẻ phá bĩnh. Cuộc tuyệt thực biến các sinh viên đại học thành các vị thánh cách mạng không ai có thể chỉ trích được. Ở mức độ nào đó, ta có thể nói rằng cuộc tuyệt thực của sinh viên không chỉ đặt cho chính quyền vào một tình thế khó xử; mà cũng đặt cho xã hội một vấn đề khó xử. Khi người ta nhìn thấy cảnh các sinh viên trẻ trả giá bằng chính sinh mệnh của mình để chống lại chính quyền chuyên chế, thử hỏi có ai đành lòng nói “không”? Những ai có thể nói “không”, hay những ai mà cõi lòng họ không bị xúc động trước quyết tâm như thế, đều không có lương tâm. Những ai nghi ngờ tấm lòng thành thật tuyệt đối của sinh viên đều là kẻ đồng loã với chính quyền. Cuộc tuyệt thực đã khiến cho đa số mọi người tạm thời bỏ quên lý trí và đã khiến một thiểu số rất nhỏ tuy vẫn còn giữ được lý trí nhưng lại trở nên im lặng. Ngay cả đến một vài người còn tỉnh táo cũng băn khoăn phải chăng sự bình thản của mình biết đâu là biểu hiện của sự thiếu lòng trắc ẩn cơ bản.
Dân chủ được ca tụng trong suốt phong trào phản kháng năm 1989 chỉ có một lượng rất nhỏ chính nghĩa hợp lý, thực tế. Trong suốt phong trào, chúng ta đã điên cuồng theo đuổi chính nghĩa trừu tượng, mù quáng mà bỏ rơi chính nghĩa hợp lý, đích thực.
Ước gì ngày Bốn tháng Sáu là “chính nghĩa” mù quáng cuối cùng
Thất bại của phong trào phản kháng năm 1989 không chỉ ở đổ máu, ở những cái chết sau đó, và ở đợt trấn áp dữ dội phong trào quần chúng tự phát, mức độ lớn; thất bại cũng ở sự thù nghịch mãnh liệt phát sinh từ sự leo thang liên tục của phong trào. Sự leo thang này dẫn tới việc trì hoãn quá trình cải cách và làm suy yếu lòng tin tưởng của nhân dân vào chế độ Đặng Tiểu Bình. Đồng thời nó cũng làm gián đoạn quá trình mà qua đó Đảng cai trị dần dần dân chủ hoá và cải cách chính mình, vì thế Trung Quốc phải chịu sự đảo ngược toàn bộ sự tự cải cách của Đảng. Bầu không khí thư giãn vào đầu năm 1989 không còn nữa, thay thế vào đó là bầu không khí thù nghịch, căng thẳng, và khủng bố. Sau ngày 4 tháng Sáu, năm 1989, việc tái tổ chức kiểm soát chính trị đã khiến nền kinh tế trì trệ. Khái niệm đấu tranh giai cấp được đề cao trở lại đã làm cho cải cách chính trị trở thành một vấn đề rất nhạy cảm. Tử khí dưới thời Mao Trạch Đông lại bay lơ lửng trên mặt đất bao la của Trung Quốc. Mối căm thù chôn vùi trong lòng của quần chúng từ sự kiện đẫm máu này sẽ bộc phát ra ngay khi cơ hội đến. Mặc dù Đặng Tiểu Bình vẫn duy trì đường lối cải cách và Chuyến Công du miền Nam của ông đã kích thích sự tăng trưởng trong phát triển kinh tế, nhưng sự kiểm soát chính trị chặt chẽ theo sau các sự kiện ngày 4 tháng Sáu đã dẫn đến sự phát triển không bình thường trong quá trình hiện đại hoá Trung Quốc, và việc Triệu Tử Dương bị tước quyền bảo đảm rằng cuộc đấu đá quyền lực theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình sẽ rất nguy hiểm. Do Triệu Tử Dương, một người có lương tâm mạnh mẽ, bị tước quyền, khủng hoảng đã xuất hiện xung quanh cuộc chuyển giao quyền lực mà đáng lẽ ra nên êm thắm và ổn định. Tâm lý “tận cùng thế kỷ” hơi hoang tưởng đã khiến người dân chỉ nghĩ đến chuyện thu vén càng thật nhiều (từ cuộc cải cách vẫn đang còn) trước khi tai ương giáng xuống. Quần chúng ý thức sâu sắc rằng cơ may cuối cùng gắn liền với sức khoẻ của Đặng Tiểu Bình. Nếu cơ may này bị bỏ lỡ, họ sẽ trở thành những con tốt hy sinh vô nghĩa trong thế giới hỗn loạn sẽ theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình. Cái sợ hoang tưởng ám ảnh “tận cùng thế kỷ” này không thể biến mất đơn thuần chỉ qua phát triển kinh tế. Đồng thời, các nỗi sợ về chính trị của chính Đảng cầm quyền không thể biến mất và mối căm thù của quần chúng cũng không thể dịu đi qua ổn định xã hội hay qua kinh tế phồn thịnh hay nâng cao mức sống. Các nỗi sợ về chính trị của Đảng cầm quyền và cái sợ hoang tưởng “tận cùng thế kỷ” của quần chúng đã làm cho viễn cảnh Trung Quốc có thể tiến bước êm thắm và không ngừng tới một xã hội dân chủ và hiện đại hoá là chuyện rất không tưởng. Nếu Đảng cầm quyền và toàn thể nhân dân không chấm dứt sự căm thù lẫn nhau của họ ngay từ bây giờ để đạt đến hợp tác xã hội,[2] lòng căm thù và nỗi sợ hãi của hai bên sẽ không thể nào tan biến được. Khi ngày mất của Đặng Tiểu Bình cận kề, những căm thù và sợ hãi này sẽ trở nên càng ngày càng không đội trời chung hơn, từ đấy đưa đến những biến động xã hội nhanh hơn thay vì chậm hơn.
Vì vậy, chấm dứt thù địch, từ bỏ sợ hãi, đạt đến hợp tác xã hội, và đưa Trung Quốc tiến êm thắm và không ngừng đến xã hội hiện đại, dân chủ không thể chỉ phụ thuộc vào việc Đảng cầm quyền quyết tâm thực hiện tự cải cách và thay đổi hình ảnh của Đảng trong lòng dân; thực hiện những mục tiêu này cũng còn phụ thuộc vào hợp tác của các nhóm đối lập trong nhân dân. Nhờ sự hợp tác này, tự cải cách có thể dần dần thành công. Ổn định hiện nay ở Trung Quốc có lẽ là cơ hộ cuối cùng của chúng ta. Đảng cầm quyền phải thừa nhận rằng (1) dân chủ hoá chính trị của chính Đảng không chỉ là chiều hướng được lương tâm nhân dân tán đồng mà đó cũng là khuynh hướng chung của các sự kiện trên thế giới và rằng (2) tốt nhất là Đảng nên tự ý thức mà thay đổi mình còn hơn là buộc phải thay đổi do tác động từ các yếu tố bên ngoài. Người duy nhất có thể cứu Đảng Cộng sản là chính Đảng Cộng sản. Nếu Đảng dần dần, từng bước một, cải cách mình và tiến đến dân chủ hoá, Đảng Cộng sản sẽ tồn tại. Nhưng nếu Đảng tiếp tục duy trì chế độ chuyên chế độc đảng, Đảng Cộng sản sẽ lụi tàn. Đồng thời, các nhóm đối lập trong nhân dân không nên đẩy Đảng ra khỏi vị trí cầm quyền; ngược lại, trong khi Đảng Cộng sản đang thực hiện tự cải cách, những nhóm này nên khuyến khích những thay đổi dưới sự cầm quyền của Đảng. Đối với Đảng cầm quyền và đối với quần chúng, đây là sự chọn lựa chín chắn nhất trong giai đoạn đổi thay toàn diện và mau lẹ.
Trong suốt quá trình này, Đảng cầm quyền nên nghiêm túc cân nhắc việc đi lá bài chính trị – lá bài ngày Bốn tháng Sáu. Không ai có thể né tránh mãi sự đánh giá lại vụ Thảm sát ngày Bốn tháng Sáu. Lá bài ngày Bốn tháng Sáu phải được đưa ra. Vấn đề rất quan trọng là – lá bài này được đi như như thế nào? Và khi nào ta nên trình bài ra? Như một sửa sai bất ngờ sau cái chết của Đặng Tiểu Bình? Hay ngay từ bây giờ Đảng cầm quyền từ từ giảm bớt niềm bất mãn và oán hận tích tụ trong lòng dân về vụ ngày Bốn tháng Sáu? Nên chăng cho tiến hành điều tra khẩn cấp vụ đổ máu này để truy cứu trách nhiệm hình sự? Hay nên chăng cứ hoãn cuộc điều tra lại? Tôi cho rằng chọn lựa khôn ngoan nhất là cách sau cùng. Không cần thiết phải có các bình luận xã hội, không cần tổ chức họp hành to tát, và không cần công bố trước dân chúng. Tất cả những gì cần làm là hãy bồi thường kín đáo cho thân nhân của các nạn nhân ngày Bốn tháng Sáu; thả tất cả những tù nhân chính trị ngày Bốn tháng Sáu; hồi phục các chức vụ cũ cho những người bị đối xử bất công vì ngày Bốn tháng Sáu; dần dần thuyên chuyển công tác rồi xuống chức những kẻ đã ngoi lên quyền lực từ máu của ngày Bốn tháng Sáu; và cho phép những người trốn ra nước ngoài vì ngày Bốn tháng Sáu an toàn trở về nước. Tất cả điều này, tôi tin, là phần cần thiết cho sự thay đổi hình ảnh của Đảng cầm quyền, là phần của sự dân chủ hoá của Đảng, là phần của những gì sẽ thu phục được lòng dân. Nếu Đảng cầm quyền không bắt đầu ngay từ bây giờ, nếu sau cái chết của Đặng Tiểu Bình có nhà chính trị nào đấy dựa vào sự sửa sai bất ngờ về những sai lầm ngày Bốn tháng Sáu để tranh đoạt quyền lực, thì tai hoạ không chỉ có thể sẽ xảy đến cho nhà chính trị này, mà còn cho cả Trung Quốc. Những hậu quả bùng phát từ sự sửa sai bất ngờ nằm ở ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ ai. Cơn lũ thù hận sẽ dìm chết tất cả những kẻ nào muốn dự phần trong bữa tiệc máu ngày Bốn tháng Sáu. Ở Trung Quốc tương lai, nói cách khác, những ai ra trận với ánh đao gươm sáng lạnh, vì muốn dẹp tan bao bất bình oan trái của ngày Bốn tháng Sáu, biết đâu có thể gây ra một cơn đổ máu khác còn lớn hơn, còn tàn nhẫn hơn nhiều. Biết đâu lại là một lần tắm máu.
Ở Trung Quốc ngày nay, năm năm sau vụ đổ máu ngày Bốn tháng Sáu…, trong một Trung Quốc đang đầy lo sợ thời điểm tận cùng của thế kỷ- có nhiều việc cần phải được hòa giải. Tôi không biết liệu chúng ta những sinh viên đại học và trí thức, những người đã nhập vai những bậc thánh cách mạng và vai các ngôi sao dân chủ trong hai tháng trời có thể đánh giá lại một cách hợp lý, bình tâm, công bằng và thực tế những gì chúng ta đã làm và đã suy nghĩ trong năm 1989; tôi không biết liệu chúng ta có thể đối diện với hiện thực Trung Quốc đang có nhiều cuộc khủng hoảng xuất hiện từ khắp mọi phía mà thấy lòng mình còn đủ can đảm để theo đuổi kiên trì kế hoạch khả thi cho cải cách lâu dài bắt đầu từ những chi tiết nhỏ nhất. Nếu được như vậy, thì cho dù sức ta có tàn kiệt, máu của ngày Bốn tháng Sáu sẽ không chảy đi hoài phí – máu vẫn còn đặc hơn nước lã. Còn không được như vậy, thì cao nhất máu của ngày Bốn tháng Sáu sẽ có thể nuôi béo những kẻ hút máu chẳng còn biết xấu hổ.
Uớc gì ngày Bốn tháng Sáu là chính quyền cuối cùng của Trung Quốc trong đó mỗi người đều tự xem mình là chính khách.
Uớc gì ngày Bốn tháng Sáu là cảnh tượng hoành tráng của chính nghĩa mù quáng tự cho mình đúng cuối cùng của Trung Quốc.
Nguồn: Trích từ Popular Protest and Political Culture in Modern China, Second Edition, edited by Jeffrey N. Wasserstrom anf Elizabeth J. Perry. Westview Press, 1994.
Bài viết được lưu hành trên mạng ở địa chỉ: http://tsquare.tv/links/LiuXiaobo.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas

[1] Lưu Hồ Lan là em bé gái 14 tuổi. Quốc Dân Đảng hành hình em trước năm 1949. Em chết khá anh hùng. Mao Trạch Đông nói về em, “Sống vĩ đại, chết vinh quang”, sau đó kêu gọi cả nước học tập tinh thần cách mạng của em. Đổng Tồn Thuỵ là một người lính trẻ trong Quân đội Giải phóng. Trong cuộc chiến tranh Giải phóng, anh dùng thân mình làm khung đỡ cho chất nổ trong một vụ tấn công vào nơi đóng quân Quốc Dân Đảng. Anh phá được lô cốt của quân đội Quốc Dân Đảng nhưng đã hy sinh. Sau năm 1949, có bộ phim tuyên dương chủ nghĩa anh hùng cách mạng Đổng Tồn Thuỵ.
[2] Người kêu gọi hợp tác xã hội là người bạn tôi tên Chu Đạo. Năm 1989, khi chúng tôi cùng phác thảo “Tuyên ngôn Tuyệt thực ngày Hai tháng Sáu”, ông chỉ ra rằng một trong những điểm chính của tuyên ngôn là lời kêu gọi chấm dứt thù địch và kêu gọi hoàn toàn ủng hộ sự hợp tác xã hội.
.
.
.

No comments: