Về nhân vật Hoàng Văn
Hoan và vụ thanh trừng sau 1979
Tác
giả: Balazs Szalontai
https://nghiencuuquocte.org/2021/12/26/ve-nhan-vat-hoang-van-hoan-va-vu-thanh-trung-sau-1979/
Khi
đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào
hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước
tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân TQ
bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một
cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary
tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức. Việc thanh trừng vừa là nỗ lực
bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiện
của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở VN.
Vai
trò cá nhân
Sự
đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn như ông
nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã
bỏ trốn sang Trung Quốc. Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông
có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc
phòng. Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan,
và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở TQ.
Mặc
dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau
này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất. Vị
trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm
trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước
biến đổi trong quan hệ Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những
người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được
biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập
niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh chấp Liên Xô –
TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ
hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng
trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng
thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo
cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu
hơn đến chính sách thân TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội. Năm 1971-72, Hà
Nội bất mãn vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế Hoan bị suy giảm.
Dù
vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung. Ví dụ, năm 1969,
chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ
kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn
đề Campuchia. Năm 1974, Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để
“chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới
bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Sự
khác biệt giữa TQ và VN về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm
cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn
và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc
Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.
Sau
Chiến tranh Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần
dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm
sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm
1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành chiến tranh,
vị trí của Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng Bảy, ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung
Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại
nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh
ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam
thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm
đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng
Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng
người Hoa ở Chợ Lớn. Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự
chuẩn bị đánh Campuchia. Nhưng mặt khác, Hoan và nhà bảo trợ TQ dễ dàng bỏ qua
là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải
thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương
lai.
Sự
đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự
mô tả mình là mẫu mực đoàn kết. Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai
ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón
tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu”.
Mặc
dù VN nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ,
nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ. Mùa xuân
1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”,
nhiều người VN đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi.
Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo. Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và
Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy
hiểm nhất của VN.
Khủng
hoảng xã hội
Quyết
loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt.
Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh
miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh
đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh. Nhiều cán bộ cao cấp,
như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Tàu, bị quản thúc. Tháng Giêng
1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh
được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy,
người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy
nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần
do xung
đột Việt – Trung.
No comments:
Post a Comment