NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ (VỤ ÁN
“VỀ KINH BẮC”) 30/10/1985 – 30/10/2025
Hoàng
Thụy Hưng - Facebook
***
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ (30/10/1985) Kỳ 4
.
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ (30/10/1985) Kỳ 3
.
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ Kỳ 1 (VỤ ÁN “VỀ KINH BẮC”) 30/10/1985 – 30/10/2025
*****
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ Kỳ 1 (VỤ ÁN “VỀ KINH BẮC”) 30/10/1985 – 30/10/2025
Ngày
30/10/1985
Trại
cải tạo Thanh Cẩm, Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá
Trước
đó khoảng nửa tháng, một buổi sáng trại viên tập hợp trước khi đi lao động, tôi
chuẩn bị lên đọc báo Nhân Dân như nhiệm vụ thường ngày của người “phụ trách văn
hoá” trong “Ban đại diện tù cải tạo”, thì Giám thị trại xuất hiện, ra lệnh cho
tất cả trại viên là sĩ quan công chức Sài Gòn về lán thu xếp nội vụ để… được về
nhà!
Sau
khi về lại xã hội, tôi mới biết đó là đợt trả tự do cuối cùng cho sĩ quan công
chức cao cấp Sài Gòn gồm khoảng 60.000 người, cũng là lúc rục rịch cho đường lối
“Đổi mới” năm 1986 khi đất nước sắp lâm vào đường cùng về kinh tế!
Tiếng
xôn xao náo động trong ít giây, rồi ào ào những con người mừng rỡ chạy rất
nhanh về các lán.
Tôi
phải đi kiểm tra vệ sinh các lán tù hình sự, không được chứng kiến cảnh họ ra về
như thế nào. Nhưng tối hôm ấy, trong lán “chính trị Bắc”, một không khí u trầm
khác hẳn ngày thường. Mọi người, trong đó có tôi, đều thao thức: Không biết bao
giờ đến lượt mình?
Khoảng
nửa tháng sau, đúng ngày 30/10/1985, buổi sáng trại viên tập trung trước giờ
lao động, tôi chuẩn bị đọc báo Nhân Dân thì bỗng nghe tiếng loa: “Hoàng Thuỵ
Hưng về lán thu xếp nội vụ!”. Choáng! Vứt ngay tờ báo xuống đất và bỏ chạy một
hơi về lán!
Lên
phòng trực ban, nhận tờ “Giấy ra trại”, chắc là tay có run run!
Giấy
ghi:
“…
Thi hành án văn, quyết định tha số 185 ngày 7 tháng 10 năm 85… Nay cấp giấy tha
cho anh, chị có tên sau đây: Hoàng Thuỵ Hưng sinh năm 1942… Can tội: Tuyên truyền
văn hoá phẩm đồi truỵ [!!!] Bị bắt ngày 20/8/82 [ngày bị bắt chính xác là
17/8/1982] Án phạt: 3 năm TTCT Theo quyết định, án văn số 230 ngày 30 tháng 1
năm 84 của Bộ nội vụ…”
Thắc
mắc đầu tiên của tôi khi đọc tờ giấy này: Tại sao họ chuyển tôi từ tội “lưu
truyền văn hoá phẩm phản động” trong lệnh bắt thành “tuyên truyền văn hoá phẩm
đồi truỵ” trong lệnh tha! Hay là họ không muốn lan truyền một bằng chứng là VN
có tù nhân chính trị (rõ ràng với hai chữ “phản động”)! Suy nghĩ này được củng
cố khi tôi trò chuyện với các anh bị bắt và tập trung cải tạo trong vụ án “xét
lại” những năm 1960: khi ra trại, các anh thậm chí không được trao cho một giấy
tờ gì giắt lưng! Bác sĩ nha khoa Phan Thế Vấn, một nạn nhân trong vụ này, kể với
tôi rằng: Sau 1975, anh vào Sài Gòn; được người bạn lúc đó làm giám đốc Sở Y tế
(BS Dương Quang Trung) đưa vào làm việc trong ngành, nhưng đến lúc khai lý lịch
thì không ai chứng nhận cho thời gian 5 năm đi cải tạo và cũng không có giấy tờ
gì để chứng minh, như vậy bị coi là “lý lịch không rõ ràng”, nên không được “tổ
chức” chấp nhận!!!
Điều
nữa đáng ghi nhận: theo đúng “luật”, án phạt của tôi là “3 năm”, thì đúng ra
tôi phải được về vào 17 hoặc 20/8/1985, nhưng hệ thống hành chính quan liêu đã
khiến tôi phải chịu thêm hơn 3 tháng trong tù, tức hơn 39 tháng thay vì 36
tháng!
Viên
đại uý phụ trách giáo dục của trại Thanh Cẩm nguyên là một giáo viên Văn (anh
đã rất tử tế với tôi trong thời gian tôi ở trại; đáng tiếc là tôi không nhớ được
tên anh). Anh trao cho tôi tờ “giấy ra trại” và mời tôi về nhà ăn bữa cơm trưa
trước khi về Hà Nội.
Chuyến
xe ca đưa tôi từ thị trấn Cẩm Thuỷ về đến nhà ga Thanh Hoá thì trời đã tối.
Không hiểu sao một bản năng xui tôi chen vào giữa đám trẻ bụi đời trong sân ga.
Hình như dáng vẻ nhếch nhác, khổ sở của một thằng tù thích hợp hơn với đám trẻ ấy
hơn là với những người đang đợi chuyến tàu sáng mai trong nhà ga! Và thật kỳ lạ!
Đêm hôm ấy tôi đã ngủ ngon hơn bất kỳ đêm nào trong suốt 39 tháng qua!
Chuyến
tàu sáng 31/10/1985 từ Thanh Hoá mãi tới tối mới đưa tôi về đến Hà Nội!
Xẩm
tối 31/10/1985, tôi lặng lẽ tự mở cửa căn phòng lớn của bố tôi trên gác 2 ngôi
nhà tổ phụ (14 Đường Thành Hà Nội). Thật bất ngờ: cả nhà đang ngồi quanh chiếc
bàn ăn lớn gỗ lim gia truyền nạm đồng 100 chữ “Phúc”: bố và tất cả các anh chị
em, các cháu trai cháu gái tụ họp ăn mừng sinh nhật lần thứ 83 của bố
(31/10/1902-1985)! Vợ tôi từ Sài Gòn ra cũng có mặt, chắc em ra để chuẩn bị lên
trại thăm tôi lần thứ hai!
(Thật
tình cờ, tôi viết bài này cũng đúng vào sinh nhật thứ 123 của bố và lúc mình sắp
tròn 83 tuổi Tây (24/11/1942-2025).
Ngày
hôm trước, 30/10/1985, là ngày kết thúc cuộc đời tù đày “lãng xẹt” của tôi sau
hơn 39 tháng, qua 3 cơ sở giam giữ của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam!
Sau
khi được trả tự do, tôi ở lại Hà Nội cùng vợ ít ngày trước khi trở về Sài Gòn.
Việc
đầu tiên là đi thăm và cảm ơn cơ quan cũ đã dành cho mình những tình cảm đặc biệt
khi trong thời gian mình gặp nạn: Báo Người Giáo viên Nhân dân và Bộ Giáo dục.
Chuyện
được coi là hy hữu trong thời “toàn trị”: Báo Người Giáo viên Nhân dân đã trả
lương đều đặn và gửi quà cho tôi trong suốt 2 năm tôi ở tù (người đem quà cho
tôi là Thư ký công đoàn cơ quan, chị Trần Thị Nhâm), bất chấp lời phàn nàn của
Công an. Thậm chí CA gửi đến báo lệnh tập trung cải tạo đối với tôi
(23/1/1984), mà đến 20/10/1984 Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng
Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi
việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Và còn cho tôi “được trợ cấp 2
tháng lương kể cả các khoản phụ cấp nếu có”.
Người
có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang (Nguyễn Trường Thuỵ),
Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo NGVND. Anh kể với tôi: Công an trách là
họ đang “đấu tranh” với tôi mà sao báo lại ưu ái, khiến công việc của họ gặp
khó khăn. Anh đã trả lời: “Chúng tôi không biết anh Hưng bị bắt vì tội gì,
nhưng ở cơ quan anh là một người gương mẫu, được anh chị em trong cơ quan quí mến”.
Hai
vợ chồng nhà báo Trường Giang đến chơi vài năm sau khi tôi ra tù
Đến
Bộ Giáo dục, tôi tìm gặp GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng, người thầy dạy tôi ở
Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội khi mới tốt nghiệp Phó Tiến sĩ ở Liên Xô về.
Tôi là cán sự bộ môn Lý luận văn học của thầy (và còn là cán sự bộ môn của vài
môn khác: Văn học nước ngoài, Ngôn ngữ học, Văn học Việt Nam hiện đại… Lý do
là: trình độ của sinh viên Văn thời đó rất không đồng đều, gần nửa là cựu giáo
viên cấp 2 vùng nông thôn, miền núi, không có điều kiện đọc sách, mở mang kiến
thức. Tôi thường phải tập trung lớp vào buổi tối, “giảng” lại những bài giảng của
các thầy trên hội trường). Thầy Hạnh rất quí tôi, khi tôi tốt nghiệp thầy đã đề
nghị giữ tôi lại làm giảng viên của trường nhưng ông Bí thư Chi bộ dạy Văn học
dân gian Đỗ Bình Trị phản đối vì cho là tôi có “lý lịch xấu”! Thật ra tôi biết
ông ngầm ghét tôi ngay từ năm thứ nhất, khi tôi được ông chỉ định lên thực tập
giảng văn bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa…” nhưng đã soạn một bài khác hẳn
với những ý mà ông đã dạy trước đó!
Thầy
Hạnh bất ngờ và vui mừng khi tôi đến chào. Sau một hồi trò chuyện, thầy bất ngờ
đưa ra một đề nghị: tôi về Bộ làm chuyên viên theo dõi chuyên môn ở trường phổ
thông! Nhưng, với một “tiền sự” về văn chương, tôi không thể chuyên trách môn
Văn, mà sẽ theo dõi môn… Thể dục!
Tôi
cảm ơn thầy, nhưng tỏ ý muốn về sống trở lại ở Sài Gòn với vợ con (và chắc chắn
SG là nơi dễ sống hơn Hà Nội, nhất là với một người có thân phận cựu tù nhân
như tôi – tất nhiên đó là điều tôi không nói ra).
Trong
những người bạn thân quí mà tôi gặp lại ngay sau khi ra tù là anh Nguyễn Kiến
Giang, cựu tù nhân vụ án “Xét lại”, vợ chồng nhạc sĩ Đỗ Cường Chi, người “môi
giới” cuộc gặp gỡ giữa tôi và người vợ tương lai,.
Nếu
ở Hà Nội, có mấy người bạn văn chương thân thiết không giấu nổi vẻ mặt sửng sốt
và lúng túng, thậm chí hơi sợ hãi khi tôi bước vào cửa (một sự thật mà tôi đã
đưa vào bài thơ “Người về”: “Người về từ cõi ấy/ Bước vào cửa người quen tái mặt”)
thì ở Sài Gòn có khác.
Tôi
nhớ một hôm đang đạp xe trên phố thì gặp nhà văn Nguyễn Khải đạp ngược chiều.
Anh phanh ngay xe lại và giơ tay chào tôi. Rồi tiến đến vui vẻ chúc mừng tôi đã
trở về! Cũng có lần gặp thầy dạy cũ ở Đại học Sư phạm Hà Nội, thầy Trần Thanh Đạm
lúc đó là Hiệu trưởng ĐHSP TPHCM. Thầy cũng dừng xe đạp thân ái hỏi thăm và
chân tình khuyên: “Cậu nên đi thanh niên xung phong một thời gian” (ý là để rèn
luyện tư tưởng thêm, hoặc là để có công việc sinh sống?)
Trong
các bạn văn nghệ, thì Trần Hoài Dương (NXB Trẻ) và vợ chồng Nhật Tuấn (NXB Văn
học) - Thu Hồng (báo Thể Thao Văn hoá) là những người đầu tiên đến thăm và cho
quà! Đó cũng là hai người bạn tận tình đi lại giúp đỡ vợ tôi trong thời gian
tôi đi tù. Trần Hoài Dương là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi, quen và thân
thiết với tôi từ những năm 1960 khi chúng tôi cùng là cộng tác viên của nhà thơ
Phạm Hổ ở báo Văn Nghệ (anh Phạm Hổ phụ trách trang Thơ của báo, đồng thời là
nhà thơ nổi tiếng về mảnh thơ thiếu nhi). THD là con người sống rất lý tưởng.
Sau này, THD làm biên tập viên của tạp chí Cộng Sản, là người dìu dắt Nguyễn
Phú Trọng trong thời gian người này tập sự. Cuối đời, anh chán ngán sự đời, xa
vợ con, sống cô độc và chết một mình không ai biết sau một cơn say rượu bia.
HH
và Trần Hoài Dương những năm 1960
HH-Nhật
Tuấn những năm 1990
Tôi
được an ủi khi biết rằng trong thời gian tôi đi tù, gia đình tôi đã nhận được sự
thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực , của
ông tổ trưởng dân phố, của các thầy cô gíao dạy cháu Hoàng Ly. Anh CSKV (đến tận
hôm nay vợ tôi vẫn nhớ tên anh, anh Khen) hôm đưa nhóm công an Hà Nội đến khám
nhà tôi, đã nhắc khéo họ là “em trai anh Hưng là liệt sĩ chống Mỹ”. Các thầy cô
giáo dạy cháu Ly ở trường cấp 1 Ngô Sĩ Liên, những chiều tan học mà vợ tôi đi
làm ăn chưa kịp tới đón, đã tự ý đèo cháu về nhà. Vợ tôi bơ vơ và ngây thơ bước
chân bươn chải vào chợ đời được nhiều người cảm thương và giúp đỡ vô tư. Em được
nhà văn Nhật Tuấn và nhà văn Hoàng Lại Giang nhận vào làm công việc hành chính ở
Chi nhánh NXB Văn học tại TPHCM.
Và
lúc này mới được nghe vợ kể một ít về những gian lao vất vả mà em đã phải lặng
lẽ vượt qua trong vài ngàn ngày đêm một mình cáng đáng gánh nặng nuôi chồng tù,
con dại, và bà mẹ chồng già yếu; những thách thức trong công việc và quan hệ ở
nơi làm việc mới. Tính em kín đáo, có những chuyện buồn mà thậm chí mãi đến 40
năm sau, khi tôi viết những dòng này, em mới kể cho nghe.
Tâm
sự đôi lứa nhiều năm sau đã được ghi lại phần nào sau một đêm mưa lớn trong bài
thơ được nhiều người chia sẻ:
Mùi
mưa hay bài thơ của M.
Tất
cả nước mắt loài người bao vây nhà ta
Nằm
bên anh em kể câu chuyện buồn
Chôn
sâu trong lòng giờ mới nói ra
Gợi
ý của trận mưa chưa từng thấy
Đã
một nghìn đêm mưa trắng đêm
Điên
cuồng nhớ mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác
Anh
đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ
còn mưa mùi nước mắt đêm
Em
còn yêu anh không yêu đến đâu giận ghét đến đâu
Mười
lăm năm lòng mình chưa hiểu hết
Mưa
mưa ngập tầng trệt
Đưa
nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước
nằm nghe mưa rồi chết
Đêm
25/6/1992
Sau
vài ngày nghỉ ngơi, bắt đầu lo tính chuyện sinh sống.
Khi
bàn bạc với vợ, tôi nêu ra ý tưởng bán phở gánh như lời khuyên của ông bạn
trong tù, nhưng vợ tôi kiên quyết gạt đi, nói không thể phí phạm vốn kiến thức
tôi đã tích luỹ được bao nhiêu năm trời!
Có
một chuyện vui đáng kể lại xung quanh chuyện sinh sống của tôi lúc ấy. Về nhà
chẳng bao lâu thì có cô công an tên Lạng đến chơi. Tôi đã gặp cô ở nhà anh cả
tôi ở Hà Nội sau khi ra tù, sau mới biết cô là sĩ quan an ninh theo dõi y tế!
Cô đề nghị tôi “hợp tác” với an ninh, đổi lại tôi sẽ được giao cho 1 kiosque ở
đường Nguyễn Huệ để buôn bán phim, giấy ảnh! Tôi hỏi: “Hợp tác” cụ thể là làm
gì? Nếu là cho biết ý kiến của mình về những vấn đề văn hoá, văn nghệ mà an
ninh quan tâm thì tôi sẵn sàng! Nhưng cô nói: Cụ thể là như thế này: Anh là người
giao du thân mật với nhà thơ Nguyễn Duy (Đúng thế! Hai chúng tôi đều từng được
giải thưởng Thơ của báo Văn Nghệ, anh đã đến chơi với tôi ở Hà Nội, và vào Sài
Gòn thì tôi rất hay lui tới nhà anh ở nhà tập thể văn nghệ sĩ đường Nam Kỳ Khởi
Nghĩa; chúng tôi quí nhau, thậm chí tôi còn rủ anh… buôn chung, có lần còn cùng
mất tiền toi vì bị lừa mua “bạch kim” từ xác máy bay!). Cô bảo: Gần đây Nguyễn
Duy hay tiếp khách là Việt kiều ở trụ sở chi nhánh của báo Văn Nghệ trên đường
Đồng Khởi mà Duy là trưởng chi nhánh, chúng tôi biết chỉ có anh có thể tham dự
những buổi như thế… Tôi lập tức đáp thẳng cánh: “Xin lỗi! Gia tộc tôi không có
ai táng vào mả chó!” Từ đó không còn gặp lại cô, nhưng vài năm sau thì đọc báo
thấy tin cô cùng vài đồng sự bị bắt vì một vụ làm ăn phi pháp gì đó!
(Không
“dụ” được tôi, sau đó an ninh đã có được “cộng tác viên” là một nhà nghiên cứu
văn học làm hợp đồng ở chi nhánh báo Văn Nghệ. Nhưng bị phát hiện, anh này được
nghỉ việc. Khi biết chuyện tôi đã từng từ chối “lời đề nghị khiếm nhã” của an
ninh, Nguyễn Duy càng quí mến tôi).
Ảnh:
https://www.facebook.com/photo?fbid=836589375745139&set=pcb.836592889078121
Khúc
Sông Mã gần trại Thanh Cẩm
https://www.facebook.com/photo?fbid=836589535745123&set=pcb.836592889078121
Giấy
ra trại
https://www.facebook.com/photo?fbid=836591752411568&set=pcb.836592889078121
Thăm
lại Bố đầu thập niên 1990
https://www.facebook.com/photo?fbid=836592022411541&set=pcb.836592889078121
Vợ
chồng nhà báo Trường Giang đến chơi vài năm sau khi tôi ra tù
https://www.facebook.com/photo?fbid=836592179078192&set=pcb.836592889078121
HH
và Trần Hoài Dương những năm 1960
https://www.facebook.com/photo/?fbid=836592332411510&set=pcb.836592889078121
HH
và Nhật Tuấn những năm 1990
https://www.facebook.com/photo/?fbid=836592515744825&set=pcb.836592889078121
HH
và Nguyễn Duy năm 1990
.
*****
May
mắn là lúc ấy, báo chí VN bắt đầu “mở ra” khi rục rịch công cuộc Đổi mới! Một số
báo, tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh được bán trên lề đường Đồng Khởi (chắc là
hàng “xách tay” của du khách nước ngoài). Tôi mua và tìm những bài thích hợp để
dịch và gửi cho mấy tờ báo ở Sài Gòn. Sau này, khi có internet, công việc dịch
thuật các bài vở mới trên các báo mạng để bán cho các báo đã là phần quan trọng
trong thu nhập thường xuyên của tôi.
Cuốn
sách dịch đầu tiên được xuất bản của tôi là cuốn “Mowgli người sói” dịch từ 2 tập
Jungle Book của Rudyard Kipling, do bạn tôi là Trần Hoài Dương của NXB Trẻ đặt
hàng năm 1987. Đó là kết quả không thể tốt đẹp hơn của thời gian tự học tiếng
Anh trong tù (học bằng 1 cuốn sách ngữ pháp tiếng Anh, một cuốn từ điển
Anh-Pháp-Pháp-Anh, những tờ báo Moscow News của Liên Xô; tôi lần mò đọc và dịch
không sót 1 chữ, say mê quên hết thân phận “tù”) . Sách đã được tái bản liên tục
đến lần thứ 3. Nó cũng mở đầu cho nghề dịch và xuất bản sách (tự mua giấy phép,
tự in, tự phát hành) kéo dài nhiều năm sau, cũng cho tôi một khoản thu nhập thường
xuyên quan trọng.
Khoảng
đầu năm 1986, tôi được bạn học cũ là Đặng Ngọc Long, một dịch giả tiếng Nga, giới
thiệu với anh Nguyễn Minh Đức, trưởng phòng Phát minh Sáng chế của Uỷ ban Khoa
học Kỹ thuật TPHCM. Anh là con người rất năng động và cởi mở, đã cho xuất bản một
tập san mang tên “Sáng tạo” để công bố các phát minh sáng chế nhưng cũng mở rộng
ra chân trời kiến thức khoa học kỹ thuật. Anh nhận ngay tôi vào làm biên tập
viên, và chẳng bao lâu thì phụ trách công việc thư ký toà soạn. Công việc này
khiến tôi gắn bó với hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên, người mà tôi mời trình bày tập
san, và từ đó học được rất nhiều kỹ năng của nghề báo từ biên tập đến sửa
morasse, theo dõi in ấn! Tờ tập san này có lẽ là sản phẩm báo chí duy nhất
không được bao cấp mà tự phát hành được ra thị trường.
Anh
Biên nguyên là Giám đốc Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục VN CH, đã được đào tạo
nghề mỹ thuật ấn loát ở Nhật Bản. Anh chính là người đã cùng người em trai là
TS kinh tế Hoàng Ngọc Nguyên thiết kế ra tờ báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm
năm 1986.
Hai
năm làm tập san “Sáng tạo” sau khi ra tù rất có ý nghĩa với tôi. Nó là bước đầu
tiên tích luỹ kinh nghiệm cho “nghiệp” làm báo thực sự của tôi từ lúc ấy đến cuối
đời, từ tập san Seaprodex rồi báo Lao Động thời Đổi mới đến các báo mạng “lề
trái” talawas, bauxite Vietnam, vanviet…
Điều
khá thú vị là hai tờ Seaprodex của Tổng công ty Xuất nhập khâu Thuỷ sản và Lao
Động Chủ Nhật của Tổng Liên đoàn Lao Động đã mời tôi về làm việc có phần vì các
vị lãnh đạo (Phó Tổng giám đốc Seaprodex là Trương Thanh Hà nguyên trong Ban
Tuyên huấn Khu V thời chống Mỹ; Tống Văn Công TBT báo Lao Động, Hữu Tính Phụ
trách cơ quan thường trú báo Lao Động tại TPHCM) ngấm ngầm “khoái” cái tiền sử
tù oan của tôi! Họ nhanh chóng trao cho tôi trọng trách: Thư ký toà soạn rồi
Phó TBT thường trực có toàn quyền của tạp chí Seaprodex, rồi sau đó về phụ
trách trang rồi làm Trưởng ban Văn hoá của báo Lao Động!
Có
chuyện thú vị khi tôi tới gặp anh Hà Seaprodex để anh “phỏng vấn”theo lời giới
thiệu của anh Thanh, người phụ trách tạp chí Seaprodex. Anh đề nghị tôi đọc một
số báo và góp ý. Đọc nhanh, tôi nói thẳng: “Đây là kiểu báo bao cấp, lưu hành nội
bộ, rất yếu về nghiệp vụ”. Anh ngạc nhiên: “Tôi chưa thấy ai đi xin việc mà nói
thẳng như anh!” Anh tỏ ra khoái chí và tuyên bố nhận ngay tôi về báo. “Nhưng có
cái hơi khó nghĩ: dù sao anh cũng bị coi như bắt đầu vào biên chế, vậy không biết
nên trả lương anh sao cho phù hợp”. Tôi đáp: “Các anh muốn sử dụng năng lực của
tôi đến mức nào thì trả lương mức ấy!” Anh Hà lại một lần nữa ngạc nhiên (chắc
anh chưa từng thấy ai dám ăn nói như thế với lãnh đạo một công ty giàu có, quyền
lực lớn hàng nhất nước! Seaprodex lúc đó là tổng công ty độc quyền xuất nhập khẩu
mọi mặt hàng, không riêng thuỷ sản). Anh bỏ sang phòng kế toán hội ý, ít phút
sau quay lại nói: “Thôi trước mắt anh vui lòng nhận mức lương chuyên viên 1 vậy
nhé!” (cấp chuyên viên là trên 6 cấp cán sự, người tốt nghiệp đại học được hưởng
85% mức lương cán sự 3).
Tôi
đã không phụ lòng anh! Nhờ sự cộng tác hiệu quả của anh em Hoàng Ngọc Biên
(trình bày), Hoàng Ngọc Nguyên (chủ bút), tôi đã biến tờ tạp chí ngành lưu hành
nội bộ thành tờ tạp chí bán chạy trên thị trường!
Ngựa
biển là tập thơ đầu tiên của tôi sau khi ra tù được xuất bản vào năm 1988, bao
gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị CA tịch thu năm 1982.
Hoạ sĩ Hoàng Ngọc Biên đã thiết kế tập thơ rất công phu. Anh cho biết đã phác
thảo 40 lần hình con ngựa chồm lên trên sóng mới có được tấm hình ưng ý để làm
bìa sách. Năm 2017 khi tôi sang Mỹ, đến thăm anh ở San Jose, anh khoe bức vẽ được
anh mang sang bày trang trọng trên bàn làm việc. Đó là tập thơ “ngoài luồng” đầu
tiên tự xuất bản ở nước ta sau “Đổi mới”, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc
NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Khi an ninh biết tin về việc tôi đăng ký xuất bản,
đòi anh cho xem bản thảo, anh đã từ chối và nói: “Là giám đốc NXB, tôi có quyền
quyết định. Sau khi sách in ra, các anh tha hồ có ý kiến”. Ngựa Biển đã trở
thành một hiện tượng xuất bản hồi ấy, nó được “đánh hội đồng” trên hầu hết các
tờ báo, kể cả tạp chí Cộng Sản! Nhưng nhờ thế mà bán hết veo 2000 bản.
Từ
đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đầy
thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Nhà thơ Ngô Văn Phú, Giám đốc NXB
Hội Nhà văn không dám cho in “Ác Mộng”. Ông bảo: “Tập thơ hay quá nhưng lúc này
chưa in được”. Sau khi về hưu, ông đã viết một bài chân thành khen nó. Tuy
nhiên một số bài trong đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang
Huy, Giám đốc NXB Văn hoá – Thông tin. Khi gửi cho anh bản thảo tập “Người đi
tìm mặt” (1994), tôi có viết thư nhắc anh: “Nếu thấy bài nào khó anh cứ bỏ đi”.
Anh trả lời ngay: “Không việc gì phải bỏ!” và anh cho in hết! Anh đã bị an ninh
làm khó, may mà thân thiết với bộ trưởng Nguyễn Khoa Điềm và cũng phải… “chạy”
thật lực mới thoát nạn. An ninh cũng đến làm việc với ông Nguyễn Văn Tư, Chủ tịch
Tổng liên đoàn Lao Động (cơ quan chủ quản báo Lao Động); ông Tư gọi anh Tống
Văn Công TBT báo, hạch: “Tay này mà anh để làm Trưởng ban Văn hoá của báo?”.
Anh Công ngại không cho tôi biết, mà “tâm sự” với Trần Trung Chính, con rể anh
Nguyễn Kiến Giang, người mà tôi giới thiệu về báo. Nghe Chính nói lại, ngay lập
tức tôi viết đơn xin từ nhiệm để tránh rắc rối cho báo! Lá đơn đột ngột khiến
Ban Biên tập lúng túng, mãi đến 6 tháng sau mới tìm được người thay tôi!
Trong
những bài thơ tù, đặc biệt là bài “Người về” đã có tác động mạnh mẽ đến giới
làm thơ và công chúng thơ.
Còn
nhớ, nhạc sĩ Trần Tiến đọc bài thơ này giữa sân báo Lao Động đã bật ngửa sững sờ!
Nhà thơ Thanh Tùng nói với các bạn thơ Hải Phòng: “Đây là bài thơ có tầm quốc tế!”.
Năm 2000, đến chơi hoạ sĩ Lê Bá Đảng ở Paris, tôi đọc cho ông nghe. Ông kêu
lên: “Tôi sẽ vẽ một tấm carte in bài thơ này!”
Người
về
Người
về từ cõi ấy
Vợ
khóc một đêm con lạ một ngày
Người
về từ cõi ấy
Bước
vào cửa người quen tái mặt
Người
về từ cõi ấy
Giữa
phố đông nhồn nhột sau gáy
Một
năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai
năm còn mộng toát mồ hôi
Ba
năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười
năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một
hôm có kẻ nhìn trân trối
Một
đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật
mình một cái vỗ vai
Tôi
viết bài này năm 1992, tức là 7 năm sau khi ra tù. Lúc đó tôi cũng đã quen với
vị thế nhà báo của mình đã được phục hồi. Nhưng trong một buổi tiệc ở Hội Mỹ
thuật TPHCM, có một người lạ mặt đến gần tôi, nhìn tôi trừng trừng và hỏi: “Anh
từ nơi ấy trở về chứ gì?” Rồi bỏ đi. Tôi đứng sững như trời trồng, và lặng lẽ
ra về. Sự việc ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy. Nó làm tôi nhận thức được một thân
phận khác của mình trong xã hội. Vài ngày sau thì bài thơ ra đời.
Bài
thơ này được đưa vào những tuyển thơ quan trọng như, “100 bài thơ hay nhất thế
kỷ XX” của NXB Giáo Dục, các tuyển thơ của NXB Hội Nhà Văn; được dịch và đăng
trên nhiều tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và
Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn
xuất bản quốc tế danh tiếng; có không ít nhà thơ, nhà nghiên cứu Việt Nam và Mỹ
đã viết bài bình luận về nó.
Một
số bài khác trong Ác mộng được dịch và in ở nhiều tạp chí văn chương Pháp, Mỹ.
Đến năm 2006, lần đầu tiên cả 30 bài Ác mộng được công bố trên báo mạng talawas
của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Đức, rồi năm 2018 được in song ngữ ở NXB Văn học ở
Hoa Kỳ với lời bình thay lời tựa của nhà thơ Ellen Bass, thành viên Ban Tư vấn
Hội Các Nhà Thơ Hoa Kỳ (Chancellor of the Academy of American Poets) và những
nhận định của các nhà thơ Việt Nam và Mỹ, Pháp như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm,
Allen Ginsberg, Robert Creeley, Marie Étienne… (bản tiếng Anh của Trịnh Y Thư ở
Mỹ và Nguyễn Đức Tùng ở Canada).
Bìa
tập thơ rất ấn tượng: theo gợi ý của tôi, nhà thiết kế bìa Bùi Nam lấy tấm ảnh
mà hoạ sĩ Hà Thế Hiển bạn học Mỹ thuật của con gái tôi Hoàng Ly chụp cảnh tôi
ngồi đọc thơ trong bóng đêm. Đó là cảnh trong đêm thơ “Cha và con và thơ” của
hai bố con tôi ở Viện Pháp Hà Nội năm 2008, tiết mục trình diễn bài “Một ngày”
đã gây ấn tượng rất mạnh mẽ cho khán giả: con gái tôi đã đạo diễn tắt hết đèn,
âm thanh, tôi ngồi giữa sân khấu, trên một chiếc ghế, tay cầm tờ giấy in bài
thơ; con gái tôi đứng bên ngoài rèm, chiếu đèn pin vào tờ giấy. Cả khán phòng gần
200 người im phăng phắc nghe bài thơ! Nhiều tờ báo chính thống đã tường thuật
đêm thơ ấy một cách thật ưu ái!
Anh
đã rất thông minh thể hiện tên tập thơ song ngữ “Ác mộng-Nightmares” như một
cây thập giá!
Riêng
có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành
nhân chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ.
Năm
1992 (1993?), một cựu học sinh người Tàu của bạn tôi, nhà thơ-nhà giáo Trịnh
Hoài Giang ở trường Trung học Trung Hoa Hải Phòng, nay là chủ một công ty Du lịch
ở Quảng Đông mời tôi đi một chuyến. Mặc dù đã được Tổng liên đoàn Lao động VN
ký công văn cho đi, nhưng Cục An ninh Tư tưởng-văn hoá đã bác bỏ.
Sau
việc này, anh Hồng Đăng, Phó TBT thường trực báo Lao Động, bạn học cũ của
Trương Hoà Bình lúc đó là Cục phó Cục A25, đã gợi ý sắp xếp cho tôi gặp Bình
“giải toả chuyện cũ” để có thể xuất ngoại, nhưng tôi đáp: “Tôi không có việc gì
để gặp họ, trừ khi họ muốn gặp tôi để xin lỗi về việc đã bắt và giam giữ tôi
oan uổng”.
Đến
năm 1999 tôi đã có cơ hội ra nước ngoài đọc thơ, nhưng đó là một "quả pháo
xịt": Chương trình giới thiệu văn học đương đại việt nam do "Nhà Văn
hoá Thế giới" Berlin tổ chức khá công phu trong khuôn khổ "Năm Văn
hoá Việt Nam", đã trân trọng giới thiệu một chùm thơ tôi trong brochure,
nhưng các nhà văn trong nước được mời không ai được phép xuất cảnh.
Tôi
là người đầu tiên trong số các nhà văn được mời dịp ấy bị từ chối xuất ngoại.
Theo lời thuật của TBT báo Lao Động Phạm Huy Hoàn, thì Trưởng ban Tuyên huấn Hữu
Thọ đã khiển trách anh vì tội ký cho tôi đi, với lý do: sứ quán Việt Nam tại Đức
báo về: "Tụi nhà văn phản động trong nước và hải ngoại gặp nhau ở đây sẽ
nhân cơ hội ra một tuyên bố về nhân quyền". Anh giở sổ tay cho tôi đọc
nguyên văn lời khiển trách của ông Hữu Thọ, nhưng dặn tôi không được cho ai biết!
Sau
này được biết buổi giới thiệu thơ tôi tại Berlin vẫn được tiến hành, bản tiếng
Việt do anh Trương Hồng Quang, Tiến sĩ văn học, đọc... giùm tác giả, một bạn
người Đức đọc bản dịch tiếng Đức của chị Thái Kim Lan.
Mãi
đến năm 2000, tôi được Bộ Văn hoá Truyền thông Pháp mời sang giao lưu (dịch tác
phẩm văn học). Nhờ nhà báo Thu Hồng (báo Thể Thao-Văn hoá, vợ cũ của nhà văn Nhật
Tuấn) bảo lãnh trực tiếp với ông Thiếu tướng Nguyễn Văn Hưởng Tổng cục trưởng
An ninh (sau là Thượng tướng Thứ trưởng đầy quyền lực), tôi mới được ông đích
thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào. Trong buổi tiếp tôi
khá lịch sự tại Văn phòng Bộ Công an, ông nói: “Tôi đã nhiều lần nói với A25 là
các anh không biết làm việc với trí thức!” Khi tôi khẳng định “tôi là trí thức
độc lập” thì ông nói: “Trí thức thì phải độc lập mới là trí thức chứ! Đi giao
lưu văn hoá thì anh đi là đúng rồi, chả lẽ cử nông dân đi?” Ông nói thêm: “Tôi
biết anh sẽ thăm các bạn mình ở bên đó (ý nói các anh chị nhà văn Vũ Thư Hiên,
Dương Thu Hương, các nhà báo Thuỵ Khuê, Bạch Thái Quốc…), tôi không dám dặn dò
gì, chỉ nhắc anh đừng để bọn xấu lợi dụng bôi nhọ tên tuổi anh và đừng làm gì ảnh
hưởng đến tôi là người bảo lãnh cho anh đi”.
Kể
từ đó, tôi liên tục có những chuyến đi giao lưu văn học ở Pháp, Đức, Mỹ. Điều
đáng nói là: ở nước ngoài, tôi quan hệ thoải mái với các trí thức, văn nghệ
sĩ,nhà báo; thoải mái phát biểu suy nghĩ của mình về các vấn đề của đất nước;
trả lời phỏng vấn các đài phát thanh… nhưng chưa gặp rắc rối gì với an ninh Việt
Nam khi trở về nước. Có lẽ vì tôi luôn nói thật lòng, và giữ góc nhìn khách
quan, tỉnh táo trước những cái “oái oăm” của lịch sử hiện đại nước mình, tuy
không né tránh việc phản biện những cái sai, bất cập của nhà nước!
Ảnh
:
https://www.facebook.com/photo?fbid=837279422342801&set=pcb.837281749009235
Gặp
lại anh Nguyễn Minh Đức (năm 2024)
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837279939009416&set=pcb.837281749009235
HH-
Thanh Hà Seaprodex (1988)
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837280095676067&set=pcb.837281749009235
Báo
Lao Động đầu thập niên 1990: cùng nhà báo Hữu Tính đón nhạc sĩ Văn Cao
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837280579009352&set=pcb.837281749009235
Bìa
tập Ngựa biển
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837280815675995&set=pcb.837281749009235
Thăm
Hoàng Ngọc Biên tại San Jose (2017)
.
https://www.facebook.com/photo/?fbid=837281159009294&set=pcb.837281749009235
Bìa
tập Ác mộng
.
https://www.facebook.com/photo/?fbid=837281512342592&set=pcb.837281749009235
Nói
chuyện về dịch thơ tại Đại học Paris 7 năm 2000: cùng nhà nghiên cứu văn học Đặng
Tiến (bìa phải), GS Lê Thành Khôi (thứ 4 từ bên phải)
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837279422342801&set=pcb.837281749009235
Gặp
lại anh Nguyễn Minh Đức (năm 2024)
.
*****
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ (30/10/1985) Kỳ 3
.
MẤY CHUYỆN THÚ VỊ VỀ “HẬU VỤ ÁN VKB”
Năm 2003, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do
khiếu nại của tôi, báo Lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm
việc trước khi bị bắt (quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời
gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam,
như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông
Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ VKB của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản
động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được
trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Tôi gửi kiến nghị cho các bạn là nhà văn Lê Lựu,
nhà quay phim Kiều Thẩm từng “lăng xê” cô đội trưởng du kích bảo vệ cầu Hàm Rồng
là Nguyễn Thị Hằng hiện là Bộ trưởng Bộ Lao Động TB và XH, nhà báo Nguyễn Thị Hằng
Nga, TBT Báo Người Lao Động và đại biểu Quốc hội, vợ người bạn tôi là nhà báo
Nguyễn Quang Thọ, kèm theo lời doạ “sẽ biểu tình ngồi trước Quốc hội nếu không
được giải quyết”. Vừa lúc bà Hằng vào Sài Gòn, chị Hằng Nga bèn đưa thẳng hồ sơ
cho bà trong một bữa ăn. Bà hỏi: “Ông HH có án không?” (tức là bị toà xử án).
Trả lời: “Không, bị tập trung cải tạo”. Thế là bà thay đổi ngay quyết định, phá
lệ! Và tôi được hưởng đủ lương hưu đúng theo thời gian làm việc (từ 1965).
Vợ chồng Hằng Nga-Quang Thọ đến dự buổi ra mắt
sách “Hoàng Cầm về Kinh Bắc” ở TPHCM năm 2022
Năm 2002, sinh nhật thứ 80 nhà thơ Hoàng Cầm,
vài đứa em thân thiết đến mừng anh, có cả Tướng Phạm Chuyên, Giám đốc Sở Công
an Hà Nội. Ông ta nói: “Khi nhận chức ở Hà Nội, tôi đọc hồ sơ vụ VKB, thấy sao
mà ấu trĩ quá!”. Tôi bèn nói: “Vậy thì anh cho tôi xin lại tập bản thảo mà anh
HC chép tặng tôi đi.” Ông hứa sẽ tìm, nhưng ít lâu sau nhắn qua một nhà báo ở
báo Lao Động rằng tập bản thảo đã bị thất lạc.
Năm 2012, tôi được biết một nhà sưu tập sách ở
Sài Gòn đã mua được tập VKB mà HC chép tặng tôi (tang vật chính của vụ án 30
năm trước đó). Và anh đã scan cho tôi, một bản scan rất đẹp, rõ cả chữ ký xác
nhận từng trang của tôi, đủ cả mấy hình bìa của Văn Cao, Trần Thiếu Bảo, chỉ
thiếu mấy bức phụ bản của Bùi Xuân Phái!
Năm 2003, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà
Nội, tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh Hoàng Phước Thuận, viên sĩ quan CA trực tiếp
hỏi cung tôi trong vụ VKB. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng
với nhau. Sau Đổi mới, thì ông là một cộng tác viên của báo Lao Động. Nay ông tự
giới thiệu là Cục phó Cục chống khủng bố. Tôi không nhận ra ông (phương phi hẳn
ra), ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, báo chí,
rồi bỗng bảo tôi thế này: “Tập thơ VKB hay thật! Anh phải viết một kịch bản
phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi!”
Tôi không viết được kịch bản phim VKB như gợi
ý của ông Thuận, nhưng cũng tự an ủi là về cuối đời, lúc tuổi đã cao sức đã yếu
mình còn gắng sức làm được một việc có ý nghĩa: Năm 2022, kỷ niệm 100 năm ngày
sinh Hoàng Cầm, tôi đã có sáng kiến làm tập sách “Hoàng Cầm về Kinh Bắc”, tôi
là chủ biên; và cùng bạn bè (trong đó có Pianist Đặng Thái Sơn, TS Nguyễn Quang
A) và gia đình cố thi sĩ tổ chức in ấn cuốn sách rất đẹp; 2 buổi ra mắt sách
hoành tráng ở Viện Pháp Hà Nội và Đường Sách TPHCM đã là những sự kiện văn hoá
đáng kể. Cuốn sách không tình cờ in toàn văn và các dị bản của Về Kinh Bắc với
những bài nghiên cứu, phê bình trong-ngoài nước, kèm cả những phụ bản quí giá:
bản nháp đầu tiên VKB, bìa của Văn Cao, Trần Thiếu Bảo và mấy trang chép tay của
HC chép tặng tôi (tang vật vụ án năm xưa), mấy bản “Hoàng Cầm ca” của Phạm Duy…
Bản thảo đã được nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, giám đốc NXB Hội Nhà văn duyệt
không bỏ 1 chữ, bất chấp “nhạy cảm”!
Trong buổi ra mắt sách trọng thể và đông đảo
tại Viện Pháp ở Hà Nội, anh Thiều đã lên sân khấu “cảm ơn nhà thơ HH đã là người
có công cho ra đời cuốn sách quí này”.
Trong những phụ bản trên, lạ nhất là bản nháp
đầu tiên VKB của tác giả, với rất nhiều những gạch xoá sửa câu sửa chữ, kể cả
bài “Lá diêu bông” mà chính tác giả luôn kể như một huyền thoại (nghe ai đọc
trong giấc mơ, thế là chép ra giấy không sửa một chữ!). Tôi đã được một sĩ quan
an ninh tặng cho bản copy của nó (chắc là anh lấy được khi thanh lý hồ sơ vụ án
năm xưa). Anh có nhã ý tặng tôi sau khi theo dõi cuộc trình bày của tôi về hồ
sơ “Thoát Trung về văn hoá” (mà tôi tổ chức trên báo mạng van viet.info) ở trụ
sở Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật năm 2015.
Ảnh :
https://www.facebook.com/photo?fbid=837982382272505&set=pcb.837989755605101
Tranh bìa cho tập VKB chép tay (Văn Cao vẽ)
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837982668939143&set=pcb.837989755605101
Trang đầu VKB mà HC chép tặng HH
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837987758938634&set=pcb.837989755605101
Bìa bản thảo đầu tiên VKB
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837988082271935&set=pcb.837989755605101
Bài “Lá diêu bông” bản thảo đầu tiên
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837988232271920&set=pcb.837989755605101
Bài “Lá diêu bông” bản thảo đầu tiên
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837988368938573&set=pcb.837989755605101
HH ra mắt sách “Hoàng Cầm về KB” ở Hà Nội
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837988735605203&set=pcb.837989755605101
Sách “HC về KB”
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837988895605187&set=pcb.837989755605101
HH và Trần Tiến ra mắt sách “HC về KB” ở
TPHCM
.
https://www.facebook.com/photo?fbid=837989262271817&set=pcb.837989755605101
Vợ chồng Hằng Nga-Quang Thọ và VC HH trong buổi
ra mắt sách “HCVKB” ở TPHCM
.
NHỚ
LẠI SAU 40 NĂM RA TÙ (30/10/1985) Kỳ 4
VÌ SAO CÓ CHUYÊN ÁN “VỀ KINH BẮC”?“Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào
cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng
Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát
chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý
do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi
nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi
Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy.
Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến
ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn
phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy,
tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc
phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu
thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng
tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một
lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào
những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái
(thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng
Đình Hưng, với sự “đỡ đầu” (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được
những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những
bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.
Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết
Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ
rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết
định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ
certificat), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang
6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo
tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có
gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con
đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem
khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng
tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống
quân, cò lả…
Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm
trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào
cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi
cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là
chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn
khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những
từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao
cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy
đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng
câu thơ “Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa” là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và
một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy
cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện
được”.
(Tâm sự của HC, do HH ghi, đăng trên báo mạng
talawas.org
của Phạm Thị Hoài ở Đức năm 2007).
VKB đã được lưu truyền “bí mật” lai rai suốt
từ những năm 1960, nhất là sau 1975 khi đất nước thống nhất. An ninh Hà Nội biết,
có đôi lần gọi tác giả lên “cảnh cáo” nhưng chỉ coi đó là thứ thơ “ngoài luồng”
không được lưu hành chính thống, chưa đến mức là “phản động, chống Đảng”. Bản
thân tôi, khi bị bắt và xét hỏi, đã hỏi ngược an ninh: “Vì sao suốt 20 năm, tập
thơ này đã lưu truyền đến hàng trăm người mà không sao, giờ đến tôi thì lại bị
bắt?” Họ không trả lời được.
Tôi đâu biết, vì nó đã trở thành… “chuyên
án”!!!
Chuyên án “Về Kinh Bắc” chắc đã được khởi động
từ quãng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, TS Kinh tế, GS đại học Laval,
Quebec, Canada, cũng là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang
làm việc/thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về
Kinh Bắc để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là
“Việt kiều yêu nước”, đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống
Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước
thống nhất, anh đã nhiều lần về nước làm việc theo lời mời của các Viện chuyên
môn. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn –
Giai phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.
Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản
chép tay VKB chẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của
cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý
Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm
ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ
“ngoài luồng”, và không ít “đặc tình” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của
CA), “cá chìm” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì
liên quan đến ông Hoàng “thơ chui” này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu vì sao
có vụ án “Về Kinh Bắc”, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài
trong bản thảo VKB bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong
đó ba bài “Cây tam cúc”, “Lá diêu bông”, “Quả vườn ổi”(thường được gọi là bộ ba
cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải
như lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu
“chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ
vơ để đi lấy chồng… Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1973, CA Hà Nội có kêu tác giả
lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải
ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày “miền Nam nhận họ,
miền Bắc nhận hàng”, VKB lại có thêm độc giả ở miền Nam; và đến 1979, sự giao
lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số
bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “bộ ba cây-lá-quả” vẫn đứng đầu
bảng. Hoàng Cầm có kể đích danh một “nữ bác sĩ” xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã
xin ông gửi cho một số bài thơ; sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư
Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai (bà tên thật là Cao Thị Ngọc Phượng, Cử nhân Sinh học,
đệ tử ruột của thầy Nhất Hạnh từ những năm 1960 ở Sài Gòn, sau này là Sư cô
Chân Không). Thầy Nhất Hạnh yêu thơ Hoàng Cầm từ thời kháng chiến chống Pháp và
Nhân Văn Giai Phẩm, nên thông qua bà để liên lạc với nhà thơ. Bà thường xuyên gửi
quà (chủ yếu là thuốc Tây để Hoàng Cầm dùng và bán lấy tiền sinh sống) và thư từ
với ông. Bà lấy tên “Cần Thơ” có nghĩa là… cần có thơ! Chính Nam Dao là người
đem một đĩa ghi âm Hoàng Cầm đọc thơ gửi sang Pháp cho bà. Trong khi xét hỏi bản
thân tôi, một sĩ quan CA cho biết: VKB bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính
là vì mấy bài thơ “Cây-Lá-Quả” được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình
mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì CA có đọc cho ông nghe bài viết
ấy trên báo Quê Mẹ. (Gần đây tôi mới được biết tờ báo này là của nhà thơ và người
hoạt động xã hội Thi Vũ Võ Văn Ái).
Có lẽ khi Nam Dao đem bản VKB mà Hoàng Cầm
chép tặng anh vào Sài Gòn thì chưa có quyết định mở “chuyên án”. Nhưng sau đó
ít lâu, anh nhận được thư của Hoàng Cầm và nhạc sĩ Hồng Đăng vào Sài Gòn chơi
cũng kịp nhắc anh cẩn thận. Vậy là anh không dám mang theo, mà gửi nó cho nhà
ngữ học Cao Xuân Hạo cất giữ, nên khi ra sân bay bay về Canada, an ninh khám
xét hành lý không thấy! Tuy nhiên, trong “tang vật” bắt được trong túi xách của
tôi có một lá thư của Hoàng Cầm nhờ đem vào Sài Gòn gửi cho anh, thư dán kín nên
tôi không biết nội dung! Vì thế, Nam Dao bị cấm về nước trong suốt 6 năm sau
đó. Mãi đến năm 2002, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới
gặp nhau ở Hà Nội khi anh nhờ tôi đưa đến chơi nhà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Năm 2015, khi tôi công bố bài viết “Vụ án “Về
Kinh Bắc” – một sự kiện hậu Nhân Văn” trên website talawas.org của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Berlin (Đức),
Nam Dao có gửi mấy lời “cước chú”:
“… từ vụ án VKB tôi phải đợi 6 năm, đến 1988,
mới được về Việt Nam trong một phái đoàn GS Đại Học Canada được Bộ Ngoại Giao
tiếp đón. Đến năm 1990, mặc dầu có giấy mời của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản lý
Trung ương, về đến Nội Bài thì tôi được lịch sự mời ra…với lý do gì đến nay tôi
cũng chưa biết, nhưng đoán là sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì phải cấp tốc
xây hàng rào bảo vệ Hà Nội. Xin Visa vài lần sau đó mà không được, tôi biết
thân mình, nhưng khi Trịnh Công Sơn viết thư nói: “… mình hết thời gian rồi”,
tôi có gặp bà Đại Sứ Việt Nam thuở đó, xin và được phép về năm 1998… Cái oái
oăm là có những nghịch lý khó chấp nhận: khi Sơn đến Quebec thăm tôi năm 1992,
anh biết tôi ấm ức, bảo: “… cứ coi họ là những đứa bé nghịch ngợm lấy chân di một
đàn kiến…”. Ngẫm nghĩ, anh an ủi cả anh lẫn tôi, tiếp: “… nhưng rồi đứa bé ấy
cũng phải lớn lên chứ”. Lớn lên thế nào không biết, nhưng lớn đủ để chính thức
nói một lời xin lỗi những con kiến càng cỡ Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm… thì chưa!”.
Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một
chuyên án VKB đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước
ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản
thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét.
Theo Hoàng Cầm thì khả năng 2 là chính, ông
nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã
dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đã “dám nổi tiếng”
hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu
đã sử dụng một số “CA riêng” của mình (viên trưởng phòng điều tra xét hỏi của Sở
CA Hà Nội Nguyễn Doãn Nhạ là người Huế, có lẽ là người như thế).
Tháng 2 năm 2022, dịp kỷ niệm 100 năm ngày
sinh nhà thơ Hoàng Cầm với sự kiện ra mắt sách “Hoàng Cầm Về Kinh Bắc” ở Viện
Pháp (Institut de France) Hà Nội do tôi chủ trì, nhà báo Nguyễn Thành Phong kể
trên FB: Hồi đó anh làm việc ở NXB Công an, ông Khổng Minh Dụ trưởng phòng Văn
hoá Văn nghệ của Cục An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) có đến NXB khoe là mới
“phá” được vụ trọng án Hoàng Cầm, Hoàng Hưng âm mưu chuyển văn hoá phẩm phản động
VKB ra nước ngoài! Anh Phong có ý cho rằng vụ này chẳng qua là do ông họ Khổng
bơm lên để “lập công”!
Cũng trong dịp này, trong buổi cùng tôi trò
chuyện với đài BBC thì cựu đại tá Thái Kế Toại, nguyên trưởng phòng Văn nghệ Cục
An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) sau thời ông họ Khổng, lại cho rằng vụ VKB nằm
trong chủ trương chung của ngành ngăn chặn mọi việc chuyển các tác phẩm bất lợi
cho chế độ ra công bố ở nước ngoài. “Trở lại bối cảnh xã hội Việt Nam đầu những
năm 80, Phạm Duy làm Ngục Ca phổ nhạc một chục bài thơ viết trong tù của nhà
thơ Nguyễn Chí Thiện đang bị giam giữ. Ngục Ca và Cầm Ca của Phạm Duy càng làm
cho không khí văn nghệ hải ngoại và phong trào kháng chiến hải ngoại phức tạp
thêm. Từ các căn cứ, chiến khu ở Thái Lan những toán quân biệt kích của Hoàng
Cơ Minh, của Võ Đại Tôn tìm cách xâm nhập vào Tây Nam Bộ, vào Tây Nguyên. Miền
Trung thì có Phong trào Phun rô. Nhiều toán phản động gây bạo loạn. Làn sóng
người vượt biển tỵ nạn. Các đài phát thanh tâm lý chiến, sách báo, băng nhạc,
băng video hải ngoại chống Việt Nam. Bối cảnh chung đó ít nhiều là lý do cho việc
ngăn chặn ý định đưa một tập bản thảo như Về Kinh Bắc ra nước ngoài”.
Xin đưa lại cả 3 khả năng về nguyên do VKB
thành “chuyên án” để bạn đọc tự xét đoán.
Thế là trong lúc cái lưới của “chuyên án VKB”
đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn
ra, vô tình chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để CA cất vó!
Tôi bị bắt chiều 17/8/1982 thì sáng 20/8/1982
công an đến bắt Hoàng Cầm tại nhà.
*
Mời tham khảo bài thơ được xem là “phản động”
tiêu biểu trong tập VKB, cũng là bài nổi tiếng nhất của đời thơ Hoàng Cầm (sau
bài “Bên kia sông Đuống” viết trong kháng chiến chống Pháp) chính vì nó gắn với
vụ án VKB! Đã có 3 ca khúc liên quan đến bài thơ này, 2 bản phổ nhạc cả bài thơ
là của Phạm Duy, Hữu Xuân, 1 bản là ca khúc nổi tiếng “Sao em nỡ vội lấy chồng”
của Trần Tiến đã lấy cảm hứng và dựa theo 1 câu thơ trong đó "... Ru em thời
thiếu nữ kiêu sa, em đố ai tìm được lá diêu bông, em xin lấy làm chồng”.
Lá Diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu bông
Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
... ới Diêu bông...!
Trong những ấn phẩm đã xuất bản sau “Đổi mới”,
Hoàng Cầm tâm sự rằng bài thơ viết về mối tình “chị-em” đơn phương vô vọng của
tác giả lúc 12 tuổi với cô gái cùng làng tên là Vinh 20 tuổi. Nghe nói, năm
1988 Hoàng Cầm vào SG lần đầu tiên sau khi ra tù, bà Vinh có đến dự đêm Thơ
Hoàng Cầm ở Nhà Văn hoá Quận 1 nhưng không ai biết (?). Tác
giả cũng khẳng định “Diêu bông” là thứ lá huyền thoại mà mình sáng tạo ra.
Sau “Đổi mới”, khi giới thiệu chùm thơ này
trên báo Lao Động năm 1991, tôi đã viết:
“… Đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời
cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực
mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một
nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt,
nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi”.
Và về ý nghĩa của cái “lá diêu bông”: “Theo
tôi, cái tên đã hình thành một cách vô thức từ những liên tưởng do hai âm
“diêu” và “bông” gợi lên. “Diêu” gợi nghĩa “phiêu diêu”, “bông” gợi nghĩa “bông
lông” hoặc “nhẹ như bông”. Lá Diêu Bông là một cái lá bay phiêu diêu, vô định”
(báo Phụ nữ TPHCM, năm 2001).
Đến
hôm nay, chắc không ai hình dung nổi một bài thơ như thế “phản động” ở chỗ nào?
Thế mà 43 năm trước đây, nó đã khiến 2 nhà thơ một già một trẻ đi tù!!!
Nhưng hồi ấy, có một luồng suy diễn (không biết
xuất phát đầu tiên từ an ninh văn hoá VN hay từ hải ngoại truyền về), cho rằng
bài thơ ngụ ý: người nghệ sĩ/người dân (em) yêu Đảng (chị); chị vẽ ra một tương
lai đẹp đẽ nhưng không có thật (“lá diêu bông” = chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản) để “em” đi tìm; nhưng “em” tìm mãi không thấy, trong khi đó “chị” bỏ đi lấy
chồng (Đảng toạ hưởng lạc thú một mình) từ lúc nào! Để cho “em” cứ suốt đời bơ
vơ gọi “Diêu bông hời, ới diêu bông!”.
Theo sư cô Chân Không ở Làng Mai bên Pháp,
chính là người mang danh “Cần Thơ” đã được Hoàng Cầm gửi thư và thơ cho, thì Phạm
Duy với lời bình chùm ca khúc “Cầm ca” đã góp phần khiến cho Hoàng Cầm mang vạ!
“Nhưng nhìn kỹ lại tình hình lúc đó, tôi thấy
vào khoảng tháng 3 năm 1982 nhạc sĩ Phạm Duy đã cho ra đời hai băng cassettes:
1. Ngục ca, phổ biến 10 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện do Phạm Duy phổ nhạc, những
bài như: Từ vượn lên người, Từ người xuống vượn, Cái lầm to thế kỷ… 2, (Hoàng)
Cầm ca, trong đó có bốn bài thơ của Hoàng Cầm là Lá Diêu Bông, Qua vườn ổi, Cỗ
bài tam cúc, Đôi cá đòng đong. Trong băng nhạc này, trước khi Thái Hiền hát, Phạm
Duy đã nói tới các bài thơ này như những lời buộc tội chế độ Cộng sản của thi
sĩ. Theo Phạm Duy, thi sĩ Hoàng Cầm đã ví Cộng sản như một người chị, một người
đàn bà rất xấu mà muốn cho mình có một bộ mặt xinh đẹp nên đã dỗ dành bao nhiêu
người em đi tìm cho mình những chiếc lá tô son điểm phấn cho chế độ và hứa hẹn
sẽ thưởng khi tìm ra lá Diêu Bông, và dù cho có em nào đã tìm ra lá, cô chị vẫn
xoè tay phủ mặt không nhìn. Phạm Duy lại viết trong tác phẩm Ngàn lời ca rằng
Lá Diêu Bông là một loại lá đặc biệt ở làng Đình Bảng Bắc Ninh, phụ nữ Việt Nam
thời xưa đã vắt nước lá này để bôi lên mặt cho da thịt thêm hồng hào tươi đẹp.
Theo Phạm Duy, nhà thơ Hoàng Cầm đã cho rằng không ai có thể làm cho chế độ Cộng
sản Việt Nam này tốt đẹp được. Trong khi đó, lời chú giải về Lá Diêu Bông của
chính Hoàng Cầm viết cho tôi là: “Còn lá Diêu Bông không thể ai tìm thấy tên
trong bất cứ một sách vở tài liệu nào về khoa học tự nhiên. Tự người đọc, nếu
yêu thơ sẽ hình dung ra cái lá ấy. Một cái lá anh đặt tên để làm symbole (biểu
tượng) thế thôi. Symbole của những mối tình cao đẹp, của những lý tưởng trong
sáng, của những gì là Thật, là Lành, là Đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhưng rồi
cuộc sống lắm khi tàn nhẫn vì xâu xé vật lộn, vì ngu si tham lam nên lắm khi
cái lá ấy ở ngay trong mình mà mình không thấy, và đến khi nhận ra thì cuộc đời
đã tàn!”
(Hồi ký “Cần Thơ về Kinh Bắc”)
Tôi đã tìm đọc kỹ Hồi ký của Phạm Duy, phần
nói về “Hoàng Cầm ca”, tuy có vài ý như trên, nhưng chốt lại, ông nhận định:
“Thế là sau khi quá mệt mỏi với loại ngục ca,
tị nạn ca hay tủi nhục ca vì phải lên gân trước thời cuộc, những bài thơ ẩn dụ
của Hoàng Cầm mà tôi soạn thành Hoàng Cầm Ca vào đầu thập niên 80 này làm cho
tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy dường như đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên
gặp lại quê hương qua những câu chuyện mà tôi cho là rất kỳ diệu, ảo huyền,
lung linh và đầy thi vị…
… Đó là chuyện lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài
tam cúc, chuyện tâm tình của những con bê vàng, con chim cu, con chào mào, con
phù du, con chim vành khuyên… Quê hương mờ nhạt hay rực rỡ, êm đềm hay chua sót
của tôi hiện ra, quả rằng còn quá nhiều cái đẹp, chứ không phải chỉ có ác mộng,
ngục tù, hận thù và tuyệt vọng!
Những bài thơ trong tập Đường Về Kinh Bắc của
Hoàng Cầm được phổ nhạc thành Hoàng Cầm Ca vẫn còn buồn rười rượi vì nó phản ảnh
một miền của đất nước Việt Nam vào những năm 60-70 nhưng nó chứa đựng quá nhiều
hương vị quê hương nên nó là liều thuốc an thần cho bản thân tôi sau khi tôi bị
đắm chìm vào không khí chết chóc gây nên bởi thơ Nguyễn Chí Thiện (ngục ca) hay
nhạc Hà Thúc Sinh (tủi nhục ca). Tôi cũng nghĩ rằng: là một người luôn luôn có
phản ứng trước nghịch cảnh, tôi không nên tự đầy đọa tôi hay khuyến khích người
nghe đi vào ngõ bí là sự thù hận, oán ghét, chửi rủa. Chắc chắn Đường Về Kinh Bắc
(nghĩa là đường về quê cũ) giúp tôi có một lối thoát”.
Ảnh: HH gặp Nam Dao ở Canada 2019
https://www.facebook.com/photo?fbid=838834895520587&set=pcb.838836288853781
Lá Diêu Bông: thơ HC, nhạc Phạm Duy, ca sĩ Ỷ
Lan
https://www.youtube.com/watch?v=XcQqqdeXu48
https://www.facebook.com/photo?fbid=838858072184936&set=pcb.838836288853781
HH và Phạm
Duy
.
No comments:
Post a Comment