Ngọn
Lửa và Ánh Trăng: Di sản tinh thần Thích Tuệ Sỹ giữa khổ đau và giải thoát
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
- Văn
Việt
Thứ
Năm, 6 tháng 11, 2025
https://vandoanviet.blogspot.com/2025/11/ngon-lua-va-anh-trang-di-san-tinh-than.html
“Đường
xưa vẫn gió, trăng chưa từng tắt,
Người
đi rồi, mà nắng vẫn trong veo.”
TUỆ
SỸ
Tháng
11-2025, đại tường Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ. Lễ đại tường là ngày giỗ năm thứ
hai sau khi một người qua đời. Đại tường không chỉ là một nghi thức tang lễ nối
dài mà là một triết luận sinh diệt siêu vượt những tín lý từng được cho là siêu
việt của văn hóa và tôn giáo Á Đông, đặc biệt trong Phật giáo; nhất là khi nói
đến một bậc danh tăng như Thầy Tuệ Sỹ lại càng mang nhiều ý nghĩa.
Trước
hết là ý nghĩa nhân sinh: Là sự tiếp nối của tình người và đạo nghĩa. Đây là cột
mốc chuyển hóa nỗi đau thành tri ân. Sau hai năm, tang thân (có cả tăng thân)
và đồ chúng đã lắng dịu tiếc thương, thay vào đó là niềm biết ơn, kính trọng
cũng như khát vọng tiếp nối đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Người ra đi không mất,
mà hiện hữu trong tâm tưởng tu, trong hành động thiện, trong hạnh nguyện lành của
người ở lại.
Đặc
biệt là theo tinh thần triết học Phật giáo mà Thầy Tuệ Sỹ đã suốt đời hoằng
hóa, Đại tường là biểu tượng của vô thường và duyên sinh. Chết không phải là hết,
mà là một chuyển động trong chuỗi tương tục của nhân duyên: “Sinh diệt
diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, khi mọi sinh diệt đều tắt, thì tịch diệt (Niết
bàn) mới là an lạc đích thực. Cái chấm dứt hình tướng của bậc trí tuệ là sự trở
về thể tánh, không còn bị ràng buộc bởi thân xác hay danh vọng mà chỉ còn lại
ánh sáng của trí tuệ - tâm từ.
Với
đạo Phật, đại tường là dịp thực hành hồi hướng công đức cho bậc chân nhân đã
viên tịch, giúp hương linh (và chính mình) tiến gần hơn tới giải thoát. Đồng thời,
giúp thức tỉnh tâm người sống để biết rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường và con
đường tu tập là cách duy nhất vượt thoát sinh tử. Sự tịch diệt của một bậc chân
tu không phải là mất mát, mà là sự trở về với pháp giới. Do vậy, đối với một
nhân vật như Thầy Tuệ Sỹ, lễ đại tường không chỉ là lễ tưởng niệm, mà là một
tuyên ngôn của trí huệ cũng như trí tuệ và đạo đức Phật giáo Việt Nam trong thời
đại mới: Biết buông bỏ vô minh, sống an nhiên giữa vô thường và tiếp nối ánh
sáng lương tri bằng chính đời sống tỉnh thức của mình.
Ánh
lửa Đại Tường trong tâm ảnh người đi
Một
sớm mai có nắng mùa Đông ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội; Paris hay California... khói
nhang trầm quyện vào tiếng chuông chùa trầm lắng, người mường tượng từ tâm ảnh
và hiện ảnh về lễ đại tường tưởng nhớ Thầy Tuệ Sỹ tỏa lên như ngọn lửa và ánh
trăng nhắc về một kiếp người tròn đầy trong vô thường.
Giữa
không gian ấy, ta không chỉ tưởng niệm một vị cao tăng, mà còn tưởng niệm một
ngọn lửa đã cháy trọn trong đêm dài của dân tộc và đạo pháp: một ngọn lửa từng
soi đường cho bao thế hệ học Phật, viết Phật và sống Phật. Kỳ lạ thay, ngọn lửa
ấy không thiêu đốt mà lại tỏa sáng bằng ánh trăng – ánh trăng rằm miên du của
Tuệ giác. Ánh sáng lung linh ấy không chỉ chiếu soi một tấm thân đã hóa cát bụi,
mà còn tiếp tục soi đường cho bao tâm thức đang đi trong đêm dài của thời đại.
Biểu
tượng Thích Tuệ Sỹ là dòng sống giữa hai cõi: hiện sinh và siêu việt.
Một
cuộc đời biểu hiện của hiện sinh khổ đau: tù ngục, khốn khó, bệnh tật, hoàn cảnh
đầy thách thức... Nhưng trong cái khổ ấy lại là một tâm thức siêu việt an
nhiên: “Tự do không phải là trạng thái, mà là tâm thái.”
Ở
đây, triết học Phật giáo gặp gỡ triết học hiện sinh, tuy cùng đại lộ mà trên
hai nẻo phân tâm – Sartre và Kierkegaard tìm tự do trong phi lý – Thích Tuệ Sỹ
tìm tự do trong chân lý vô ngã. Lộ trình Tuệ Sỹ không chống lại khổ đau, mà
xuyên thông qua nó; không phủ nhận đời, mà sống giữa đời như một bài Tâm Kinh
vô tự để từ đó đi vào “Tam Tâm Pháp Ấn”: Từ bi - Trí tuệ - Tự do.
Từ
bi trong hành động: dấn thân vì tỉnh thức, vì con người, vì lý tưởng giác ngộ để
hoằng dương chánh pháp. Từ bi, không chỉ là lòng thương mà là dấn thân. Thầy
không rút lui vào cõi thiền am tĩnh mịch, mà bước ra giảng dạy, viết, dịch,
tranh luận, hoằng pháp – để ngọn đèn Phật học Việt Nam không tắt giữa thế kỷ đầy
biến động.
Trí
tuệ trong ngôn ngữ: triết luận hàn lâm mà gần gũi, dịch thuật uyên bác mà tỏa
sáng, thi ca bay nhẹ vào đời như mây trắng chân không. Trí tuệ, là cốt tủy
trong từng trang kinh, từng luận thuyết. Từ Triết học về Tánh Không đến Đạo Phật
và Con Người hiện đại, Thầy luôn đi tìm một lối vào Phật pháp bằng con đường
khai phóng, nơi tri thức không đối nghịch với đức tin, mà nâng đỡ đức tin.
Tự
do trong tâm thức: vượt mọi áp bức, không vướng vào danh lợi, hình tướng hay
quyền uy. Tự do, là hơi thở cuối cùng của một đời người tu. Không tự do, thì đạo
chỉ là khuôn phép; có tự do, mới có giác ngộ. Thầy từng nói:
“Không
ai có thể hoằng pháp nếu chưa từng giải thoát khỏi chính mình.”
Câu
ấy, giờ đọc lại, như một lời gửi cho tất cả những người đi sau; những ai đang
hoằng pháp trong kỷ nguyên hỗn mang của thông tin và ảo tưởng; rằng, điều quan
trọng nhất không phải là nói về đạo, mà là sống được trong đạo.
Trong
tác phẩm Triết học về Tánh Không, Thầy Tuệ Sỹ viết: “Không
có cái Ta nào bị giam cầm, chỉ có vô minh tưởng rằng mình bị giam.” Tư
tưởng này vẫn được xem là “dấu ấn triết học” của Phật học Việt Nam thời hiện đại:
tự do như là tự tri; an trú trong chánh niệm. Bởi vậy, ánh trăng thiền vị trong
thơ Tuệ Sỹ đã là một trời thơ. Đẹp quá!
Tuệ
Sỹ không là một thi sĩ làm ra thơ mà thơ đã chính là tâm hồn thi sĩ nên thơ Thầy
là một thiền khúc tâm ca vượt lối mòn và ước lệ thời đại.
“Một
ngày nào đó / Trên vết chân người / Cỏ sẽ mọc xanh / Và mưa sẽ rơi.”
Đó
là lời của một người không tuyệt vọng, dù thân bị giam trong trần lao, tâm vẫn
hòa vào hư không, như trăng soi qua song sắt.
Thơ
Tuệ Sỹ là “thiền ca hiện sinh”; không nói vô ngã bằng triết, mà bằng hơi thở, bằng
chữ nghĩa mềm mại, thong dong siêu vượt như hương khói nhang trầm.
Và
ánh trăng vằng vặc trong tâm thức người ở lại
Đại
Tường không phải là khép lại một kiếp người, mà là mở ra một kiếp sáng. Cuộc đời
Thầy Tuệ Sỹ là minh chứng hùng hồn cho chân lý ấy. Thầy đã sống giữa hai cõi hiện
sinh và siêu việt:
Ở
cõi hiện sinh, Thầy từng chịu giam cầm, thiếu ăn, bệnh tật và cô đơn. Thân phận
ấy, nếu nhìn bằng con mắt thế gian, là một bi kịch. Nhưng ở cõi siêu việt,
chính trong khổ đau, Thầy tìm thấy con đường giải thoát như Thầy từng viết:
“Không
có cái Ta nào bị giam cầm, chỉ có vô minh tưởng rằng mình bị giam.”
Đó
không chỉ là một phát biểu triết học, mà là một tuyên ngôn của tự do nội tâm –
thứ tự do không thể bị còng trói bởi quyền lực hay xiềng xích.
Nếu
Sartre nói: “Con người bị kết án phải tự do” thì Thích Tuệ Sỹ
lại cho rằng: “Con người giải thoát khi thấy rõ không có cái Ta nào để
bị kết án.”
Thầy
đã đi xa, nhưng Tuệ vẫn còn ở lại. Ở lại trong từng hơi thở của người học đạo,
trong từng dòng chữ của thiền lâm Phật học, nơi Thầy đã góp phần gieo hạt giống
tư tưởng, đối thoại và tự do. Ở lại trong những ai từng tin rằng Phật pháp
không chỉ là giáo lý để tụng niệm, mà là ánh sáng soi đường trong những khúc
quanh tối nhất của đời người.
Ngọn
lửa Tuệ Sỹ đã cháy trọn một đời và chính vì cháy trọn, nên đã hóa thành ánh
trăng. Ánh trăng ấy không bốc cháy dữ dội, mà soi đường cho từng bước chân hậu
học trên con đường dài của Phật pháp và nhân sinh.
Những
người ở lại, dù không đủ để nối gót, vẫn có thể giữ được ánh sáng khi vẫn khiêm
cung lắng lòng trầm tư trong tịch lặng để chắt lọc pháp ngôn, xiển dương pháp
thoại, sáng tác pháp tuệ, cung dưỡng pháp hành... trong tương quan nghệ thuật với
nhân sinh cho Đạo và cho Đời.
“Ta
về trong bóng nguyệt xưa,
Nghe
hoa vẫn nở như chưa hề tàn.”
(Hồi quang)
Thầy
ơi!
Ánh
trăng vẫn đó.
Và
trong mỗi người còn lại, ngọn lửa của Thầy chưa bao giờ tắt.
Sacramento,
thủ phủ Cali. Quý Thu 2025
Hình : https://vanviet.info/wp-content/uploads/2025/11/unnamed.jpg
Tác giả bên tượng Thầy Tuệ Sỹ
No comments:
Post a Comment