Kênh
đào Đế chế Phù Nam: “âm mưu thâm độc của Bắc Kinh”?
RFA
2023.10.16
Dự án kênh đào “Funan Techo Canal”
(“Kênh đào Đế chế Phù Nam”) của Campuchia đang nhận được sự quan tâm rộng rãi từ
giới chuyên gia về sông Mekong nói chung và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) ở
Việt Nam nói riêng.
Một người
chèo thuyền trên sông Hậu, lưu vực Cần Thơ, Việt Nam, ngày 25/5/2022 (Ảnh minh
họa). Reuters
Tiếp
theo bài phỏng vấn TS. Brian Eyler ở Stimson Center, RFA
xin giới thiệu những phân tích của Kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Viet Ecology
Foundation- một Tổ chức Phi chính phủ (NGO) ở Hoa Kỳ, về đại dự án trên.
Dựa
trên cơ sở phân tích các thông số kỹ thuật và thiết kế của đại dự án kênh đào
này, ông Phạm Phan Long cho rằng đây là một bước đi chiến lược của Trung Quốc để
đánh vào hạ lưu sông Mekong. Ông nhấn mạnh, do đó hai quốc gia Campuchia và Việt
Nam cần hợp tác thay vì chia rẽ nhau để cùng bảo vệ môi trường sống cho chính mình.
*
RFA:
Theo ông, dự án này có ý nghĩa gì với Campuchia? Trung Quốc liên quan như thế
nào? Việt Nam có liên quan đến các thủ tục duyệt xét dự án này hay không?
Phạm
Phan Long: Ủy
ban sông Mekong quốc gia Campuchia đã công bố bản thông báo về kế hoạch
đào kênh Phù Nam dưới tên Funan Techo Canal, dài 180 km, rộng 80 m tới
100 m, mực nước 4,7 m.
Kênh đào
này bắt đầu từ sông Mekong, nối sang sông Bassac và hướng ra vịnh Thái
Lan. Song song hai bên kênh sẽ có 200 km đường cao tốc kết nối các thị trấn.
Khi có hạ tầng cơ sở, phương tiện giao thông và nguồn cung cấp nước, tiềm năng
phát triển kinh tế đồng bằng Tây Nam của Campuchia sẽ vực dậy. Kênh Phù Nam đã
được chính quyền Campuchia đánh giá có khả thi kinh tế rất cao.
Công ty
quốc doanh China Communication Construction của Trung Quốc đã bí mật
thực hiện nghiên cứu khả thi dự án này từ 2021. Công trình này sẽ được
tài trợ bởi chương trình Vành đai Con đường (BRI) của Trung Quốc với kinh
phí 1,7 tỉ Mỹ kim.
Vào Thế
kỷ 13, Trung Quốc đã đào Đại Vận Hà dài 1.800 km cho dân tộc họ, đến
nay vẫn là con kênh dài nhất thế giới, kênh Phù Nam có thể xem là
một Đại Vận Hà của Vương Quốc Cam Bốt và dân tộc Khmer.
Hình 1.
Kênh Phù Nam, Funan Techo Canal. Nguồn: Mekong River Commission. (Ảnh và chú
thích: Kỹ sư Phạm Phan Long.)
Theo quy
định “Thủ tục thông báo, tham vấn trước và thỏa hiệp” (Procedures for
Notification, Prior Consultation, and Agreement, viết tắt là PNPCA) của Ủy hội Sông
Mekong (Mekong River Commission, MRC) và Hiệp Định Mekong 1995, thì Campuchia
có trách nhiệm cung cấp báo cáo khảo sát kỹ thuật (Technical Review
Report, TRR) với đánh giá tác động môi trường xuyên biên
giới (TbEIA/ Environmental Impact Assessment) đối với kênh đào Phù
Nam của họ.
Thủ tục
PNCPA của MRC gồm ba giai đoạn: Thông báo-Tham Vấn và Thỏa hiệp. Việt
Nam không có trách nhiệm soạn thảo TRR/EIA và nộp cho Campuchia như họ gởi
văn thư yêu cầu. Việt Nam cũng không thể tự làm được vì không nắm được thiết
kế, thông số và quy trình vận hành. Do đó không ai có thể đánh giá dự án này
theo khoa học được nếu chỉ có bản Thông báo, một “Prior Notification” rất sơ
lược.
.
RFA:
Ông có nhận xét, trao đổi gì với các chuyên gia khác về tác động môi trường,
kinh tế, xã hội của đại dự án giao thông thủy này của Campuchia tới bản thân
Campuchia và Việt Nam?
Phạm
Phan Long: TS.
Brian Eyler, Stimson Center (Mỹ), được Radio
Free Asia phỏng vấn đã phát biểu rằng: Dự án kênh đào nhân tạo này
có thể là chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài (Đồng bằng sông Cửu Long),
và do đó, cần có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu rõ ảnh hưởng của nó. Ông cho rằng
kênh đào này cần ít nhất 77 triệu mét khối nước để lấp đầy kênh khi nó hoàn
thành. Như vậy, nó sẽ hạ thấp mực nước sông Mekong ở khu vực Phnomphenh và
ĐBSCL ở Việt Nam. Nó cũng sẽ tác động nguy hại đến dòng chảy ngược vào Hồ Tonle
Sap, một quá trình tự nhiên hiện đang giúp duy trì chủ yếu ngành ngư nghiệp nội
địa của Campuchia và nông nghiệp ở ĐBSCL ở Việt Nam.
Trao đổi với
chúng tôi và các nhà nghiên cứu khác, Kỹ sư Thuỷ học Đỗ Văn Tùng, P.Eng, từng
là kỹ sư tham vấn cho nhiều công ty Mỹ và Canada, cho rằng:
“Nếu
con kênh này bắt đầu từ Prek Takeo nối dòng chính sông Mekong và sẽ gặp sông
Bassac ở hạ lưu. Sau khi hoàn thành, con kênh dài 180 km này sẽ cần
khoảng 80 triệu mét khối nước để thông thương. Sau đó lưu lượng dòng
chảy trong kênh sẽ tùy thuộc vào chênh lệch cao độ giữa đầu và cuối con kênh,
cùng với ảnh hưởng của thủy triều. Lưu lượng nước này sẽ lấy từ sông
Mekong và Bassac. Ảnh hưởng như thế nào ở mỗi mùa đối với Biển Hồ
Tonle Sap và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn chưa rõ. Cần phải có một mô
hình điện toán về thủy lực [Hydraulic modeling] mới tính được chính
xác. Nhưng có một điều chắc chắn là trong mùa khô nước ở ĐBSCL sẽ ít
hơn làm vấn đề nhiễm mặn trầm trọng hơn.”
Theo tôi,
ngoài những tác động như trên, Kênh đào Phù Nam còn có khả năng tác động tới
ĐBSCL ở những khía cạnh khác nữa.
Ngoài
dung tích 77 triệu mét khối dung tích cần có ban đầu, phải tính thêm
lượng nước hàng năm các âu tàu phải xả ra là 113 triệu mét khối.
Đáng quan tâm hơn nữa là về sau khi có con kênh này rồi, Campuchia có thể
đơn phương bơm nước từ kênh này ra tưới khắp châu thổ vùng Takeo suốt lộ
trình 180 km cho tới vịnh Thái Lan. Khi đó Campuchia không phải chỉ cắt
113 triệu mét khối mỗi năm không cho về châu thổ Cửu Long như họ thông
báo, mà sẽ nhiều lần hơn thế, không thể nào lường được, lúc đó Việt Nam
có lẽ sẽ bó tay.
Kênh Phù
Nam sẽ gây tác động nhất định lên Biển Hồ Tonle Sap. Chính bản thân
Campuchia phải rất quan tâm vì nhiều năm rồi Biển Hồ đã bị mất dần
nhịp lũ. Khi thêm kênh Phù Nam cùng chảy với sông Tiền và Hậu ra biển
Đông thì liệu nhịp lũ cho Biển Hồ còn tồn tại được không?
Thật
vậy, nhóm nghiên cứu của TS. Samuel De Xun Chua, Department of Geography,
National University of Singapore, đã khảo sát nhịp lũ suốt 60 năm tại Biển
Hồ và công bố tình trạng suy thoái như sau:
“Chúng
tôi thấy rằng thời gian mùa lũ đã giảm khoảng 26 ngày (Kampong Cham) và 40 ngày (Chaktomuk), mùa lũ bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn
nhiều. Dọc sông Tonle Sap, dòng chảy ngược trung bình hàng năm từ sông Mê Kông
đến hồ Tonle Sap đã giảm 56,5 %, từ 48,7 km3 năm
1962–1972 xuống
còn 31,7 km3 năm 2010–2018. Kết quả là mực nước mùa mưa tại
hồ Tonle Sap giảm 1,05 m trong năm 2010–2019 so với năm 1996–2009, tương ứng với
diện tích hồ giảm 20,6 %.” (Xem trên tạp chí “Hydrology and Earth
System Sciences” của Liên minh khoa học địa chất châu Âu.)
Với những
nguy cơ to lớn mà dự án kênh đào Phù Nam có thể gây ra, “Báo cáo đánh giá tác động
môi trường xuyên biên giới” của dự án này cần phải xét tác động tích hợp của
kênh đào này cùng với hoạt động của các đập thủy điện trong toàn lưu vực, qua
các tình huống mưa nhiều cũng như khô hạn. Vận chuyển trên kênh phải tùy vào mực
nước ấy.
Bên cạnh
đó, phạm vi nghiên cứu đánh giá tác động môi trường cần phải có Biển Hồ,
lưu vực Tonle Sap ở Campuchia và ĐBSCL ở Việt Nam, từ Nam Vang theo các dòng
nước ra biển Đông, vì đó là một hệ sinh thái không thể tách riêng khi
khảo sát ảnh hưởng tác động môi trường.
.
RFA:
Theo ông, Việt Nam nên hợp tác và thương lượng với Campuchia ra sao để bảo vệ lợi
ích của mình và giảm thiểu những nguy hại tiềm năng mà dự án này có thể gây ra?
Phạm
Phan Long: Việt
Nam có khá nhiều phương cách ràng buộc Campuchia tuân theo các thủ tục
của MRC để kiểm soát kênh Phù Nam. Giới hạn trọng tải tàu thuyền trên
kênh Phù Nam theo đúng công bố của Campuchia là 1000 DWT. Nam Vang sẵn có
hai thương cảng, có khả năng cho tàu 2000 DWT và 5000 DWT ra vào nên Campuchia
sẽ vẫn cần vận chuyển tàu bằng sông Tiền và có thể cả sông Hậu. Do đó
Việt Nam có tư thế thảo luận với Campuchia với tiếng nói trọng lượng.
Về chiến
lược, đối với Mekong River Commission (MRC), Việt Nam và Campuchia đều không
có chiến lược lớn, nên chưa hề ngăn được một con đập nào mà đã mất
nhịp lũ, phù sa và nông ngư sản. Thậm chí, cả hai còn bị hạn hán giữa mùa
mưa, xâm mặn ngày càng sâu. MRC đã trở thành cao tốc thông thoáng cho các
đập Xayaburi, Don Sa Hong, Pak Lay, Pak Beng, Sanakham và Luang Prabang của
Lào. Các đập này lần lượt được MRC thông qua, có Trung Quốc và Thái Lan
sẵn sàng tài trợ và cố vấn.
Với kênh
Phù Nam, Việt Nam có thể đặt Campuchia trước trách nhiệm bảo vệ lưu
vực, đúng theo 5 Thủ tục và Hướng dẫn MRC đã thông qua, đặc biệt nhất
là cho dòng chính với “Quy trình duy trì dòng chảy trên dòng chính”
(“Procedures for the Maintenance of Flows on the
Mainstream”):
1. Từ thông báo đến thỏa hiệp (PNPCA).
2. Theo dõi, báo cáo vận hành kênh
đào, không vi phạm những thông số giới hạn đã quy định (tức “Quy trình giám
sát sử dụng nước”, hay “The Procedure of Water Use Monitoring”, PWUM).
3. Bảo trì lưu lượng cần thiết tại
dòng chính theo từng tháng (PMFM) Mekong và Bassac. Xem Hình 2, kênh Phù
Nam sẽ không được chuyển nước gây xâm phạm vào lượng nước cung cấp cho
hạ du sử dụng và đáp ứng nhu cầu sinh thái.
4. Bảo vệ chất lượng nước sông
(Procedures for Water Quality, PWQ).
5. Cung cấp thông tin và số liệu quan
trắc (Data and information sharing, PDIES).
Hình 2.
Đường màu đỏ là mức nước dòng chính cần phải bảo vệ theo PMFM. Nguồn MRC.
Nếu
Campuchia tuân theo những hướng dẫn ở trên, nhất là PMFM cho Châu Đốc, Tân Châu
và Biển Hồ, cùng với các tác động môi sinh có biện pháp giảm thiểu được,
thì cơ hội hợp tác hai nước ở dự án kênh Phù Nam này không phải là không thể
trở thành sự thật.
.
RFA: Việt
Nam và Campuchia có cần hay không một cơ chế rộng hơn Ủy hội Sông Mekong để
phát triển khả năng hợp tác nhằm bảo vệ lợi ích của cả hai nước?
Phạm
Phan Long: Từ
1995, Trung Quốc đã kích động sự chia rẽ giữa hai dân tộc Campuchia - Việt Nam,
khiến họ không hậu thuẫn cho nhau để Trung Quốc và Lào khai thác thủy
điện trên dòng Mekong. Trung Quốc dẫn dắt Lào, biến họ trở thành bình điện
của Đông Nam Á. Kết quả trước mắt là Campuchia và Việt Nam hưởng ít lợi nhất,
nhưng gánh tất cả thiệt thòi.
Tình trạng
bất công nói trên vi phạm tôn chỉ của Công
ước Liên Hiệp quốc 1997 cho các dòng sông quốc tế. Nguyên tắc không
gây nguy hại (Do no harm) và chia sẻ công bằng hợp lý (Equitable and
Reasonable Utilization ) giữa các nước không được thực hiện, mà tổ chức MRC
nghiễm nhiên đi ngược với tôn chỉ của Hiệp định 1995 lập ra tổ chức
này.
Kênh Phù
Nam có thể là cái đinh cuối cùng đóng trên nắp quan tài ĐBSCL theo quan
sát của TS. Brian Eyler. Trung Quốc đã đem quan tài này để Campuchia và Việt
Nam xô đẩy nhau ngã vào. Kênh Phù Nam với quyết tâm của Campuchia có lẽ sẽ tiến
hành, Việt Nam có thể phản đối, như từng phản đối các dự án của
Lào. Nhưng có lẽ cả hai sẽ cùng đạt được lợi ích chung, nếu Việt Nam thỏa hiệp
được với Campuchia, để cả hai cùng nhau bảo vệ Biển Hồ và ĐBSCL, dựa vào
các thủ tục và quy định của MRC nói trên.
Trước dự
án kênh Phù Nam, Campuchia và Việt Nam cần tìm cách hợp tác và tránh gây
tranh chấp. Hai nước không nên để cho Trung Quốc khai thác cơ hội biến Phù Nam
thành biểu tượng xung đột giữa hai dân tộc. Campuchia và Việt Nam đều phải nhận
thấy âm mưu thâm độc của Trung Quốc và nhảy ra khỏi cỗ quan tài
“Made-in-China” bằng một liên minh chiến lược toàn diện, bảo vệ quyền
lợi một lưu vực chung cho cả hai nước Campuchia - Việt Nam.
Mục đích
hợp tác chiến lược ở mức cấp cao nhất cho hai nước là cùng làm bản tuyên ngôn
chung “Không chấp nhận cho thêm con đập nào nữa”, và “Yêu cầu
giới hạn hoạt động các đập thượng nguồn, để bảo vệ và phục hồi nhịp lũ cho môi
sinh Biển Hồ, vựa cá của dân tộc Campuchia và ĐBSCL, vựa thóc của dân tộc
Việt Nam.”
Trong
tương lai xa, hai nước cần nhắm tới một hiệp ước toàn lưu vực, đầy đủ
và chặt chẽ hơn Hiệp định 1995. Những mô hình mà hai nước có thể tham khảo
là “Sáng kiến Lan Thương-Mekong” (“Lancang-Mekong Initiative”)
hay một “Hiệp ước sông Mekong” (“River Treaty”) theo Công ước 1997 của Liên Hiệp
quốc. Ngoài ra, hai nước nên thành lập “Quỹ Lan Thương - Mekong”
(“Lancang-Mekong Fund”) để trợ giúp dân cư khắp lưu vực, nhằm chia sẻ lợi ích
và đền bù thiệt hại công bằng cho họ.
.
RFA:
xin cảm ơn Kỹ sư Phạm Phan Long đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
---------------------
Tin,
bài liên quan
THỜI SỰ
Kênh
đào Funan ở Campuchia: chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài ĐBSCL?
Cần
cơ chế phối hợp giữa các nước lưu vực Mekong để cứu hạn cho vùng hạ lưu
Sông
Mekong: Trung Quốc chặn dòng, Hoa Kỳ trợ giúp
Đập
thủy điện Sekong A: nguy cơ tàn phá môi trường, kinh tế và xã hội
No comments:
Post a Comment