Tại
sao Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông?
VOA Tiếng Việt
31/10/2023
Bắc Kinh
tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông dựa trên cái gọi là “đường chín đoạn”
mà họ một lần nữa đưa vào phiên bản mới của bản đồ quốc gia vào đầu năm nay.
https://gdb.voanews.com/01000000-0aff-0242-4601-08dba762ca06_w650_r1_s.png
Đường chín
đoạn trên bản đồ do Trung Quốc phát hành trong phim Barbie năm 2023.
Bản đồ này đã gây khó chịu cho các quốc gia
Đông Nam Á, bao gồm Malaysia, Philippines và Việt Nam, những quốc gia cũng
tuyên bố chủ quyền ở vùng biển gần bờ biển của họ nhất.
Một tòa án quốc tế đã ra phán quyết từ năm
2016 rằng bản đồ của Trung Quốc không cung cấp cơ sở pháp lý cho yêu sách của Bắc
Kinh nhưng Bắc Kinh đã phớt lờ quyết định đó và tiếp tục khẳng định tính hợp
pháp của đường chín đoạn.
Theo Viện Lowy có trụ sở tại Sydney, các cường
quốc thế giới như Trung Quốc sử dụng các phương tiện mang tính đại diện như bản
đồ quốc gia để “biện minh cho chủ nghĩa ngoại lệ của họ”.
Viện nghiên cứu cho biết bản đồ này cho phép Bắc
Kinh thể hiện việc “lãnh thổ hoá về đường biển”.
Vùng biển lịch sử
Theo quan điểm của Trung Quốc, yêu sách của nước
này đối với Biển Đông có thể đã có từ nhiều thế kỷ trước và được thể hiện trong
đường chín đoạn.
Các chuyến hành trình qua Biển Đông có thể bắt
đầu từ thế kỷ thứ hai, vào thời nhà Hán, khi các hoàng đế cử các nhà thám hiểm
và quan chức chính phủ đi khảo sát các khu vực khác của châu Á.
Đến thời nhà Tống, Trung Quốc nhất mực khẳng định
rằng họ đặt tên và nhận chủ quyền lãnh thổ ở các chuỗi đảo mà họ gọi là Nam Sa
(Quần đảo Trường Sa) và Tây Sa (Quần đảo Hoàng Sa).
Thương mại cũng đưa các nhà thám hiểm Trung Quốc
đi sâu hơn vào vùng biển Đông Nam Á, bao gồm Indonesia, Borneo và bán đảo Mã
Lai, hầu hết đều nổi tiếng dưới thời Đô đốc Trịnh Hòa vào thời nhà Minh.
Bắc Kinh khẳng định rằng các ghi chép lịch sử
của họ cho thấy các triều đại Trung Quốc hùng mạnh lúc bấy giờ gần như có quyền
kiểm soát hoàn toàn vùng biển này trong nhiều thế kỷ.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các nhà thám hiểm
phương Tây và sự trỗi dậy của triều Nguyễn ở Việt Nam vào thế kỷ 19 đã thách thức
các yêu sách của Trung Quốc đối với vùng biển Đông Nam Á.
Đường ‘mười một’ đoạn
Thoạt đầu bị thôi thúc bởi việc buôn bán gia vị
sinh lợi, người châu Âu bắt đầu khẳng định vị thế của mình ở Đông Nam Á từ thế
kỷ 16.
Sau khi người Bồ Đào Nha thành lập thuộc địa ở
Malacca trên bán đảo Mã Lai, người Anh, người Hà Lan và người Pháp cũng bắt đầu
mở rộng sang khu vực, thiết lập các thuộc địa kéo dài cho đến Thế chiến Thứ
hai, và trong một số trường hợp, còn xa hơn nữa.
Nhiều thành phố ở Trung Quốc cũng do Nhật Bản
kiểm soát, một quốc gia quân sự hóa lúc bấy giờ cũng nắm quyền kiểm soát bán đảo
Triều Tiên vào đầu thế kỷ 20.
Đến năm 1942, người Nhật đã đẩy lùi người châu
Âu và mở rộng sự thống trị của họ vào đất liền và vùng biển Đông Nam Á, chiếm
đóng nhiều nước xung quanh Biển Đông.
Khi Nhật Bản đầu hàng ba năm sau đó, chính phủ
Quốc dân đảng lúc bấy giờ của Trung Quốc (được gọi là Trung Hoa Dân Quốc) đã nắm
lấy cơ hội để đưa ra yêu sách đối với vùng biển này và xuất bản bản đồ quốc gia
của Trung Quốc vào năm 1947, bao gồm cả yêu sách đường 11 đoạn đối với Biển
Đông.
Những người theo chủ nghĩa dân tộc đang trong
cuộc nội chiến với đảng cộng sản vốn đang phát triển nhanh chóng, nhưng các
chuyên gia địa chất đã bắt đầu lập danh mục những gì chính phủ Quốc Dân Đảng
coi là kho báu hàng hải của Trung Quốc.
Hai đoạn gạch thêm trên bản đồ bao gồm Vịnh Bắc
Bộ của Việt Nam.
Khi những người cộng sản giành chiến thắng
trong cuộc nội chiến, Bắc Kinh đã sửa lại bản đồ quốc gia, dường như từ bỏ yêu
sách về vịnh (và hai đường đánh dấu vùng biển) do có chung “tình đồng chí” với
Bắc Việt, cũng là cộng sản.
Đài Loan, nơi chính phủ dân tộc chủ nghĩa
thành lập chính quyền sau thất bại trước phe cộng sản, đã từ bỏ yêu sách đối với
vùng biển lịch sử này vào năm 2005.
Xung đột hiện đại
Đường lưỡi bò hình chữ U trên bản đồ quốc gia
Trung Quốc đã vươn sâu vào Biển Đông; một sự thể hiện trực quan về quyền được
tuyên bố của Trung Quốc đối với các vùng biển cách bờ biển Trung Quốc đôi khi
hàng trăm km.
Các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền một phần
biển và bác bỏ đường chín đoạn cho rằng yêu sách của Trung Quốc xâm phạm lãnh
thổ của họ theo quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Theo luật đó, mỗi quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế kéo dài 200 hải lý (khoảng
370 km) tính từ bờ biển của mình và có quyền chủ quyền.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ
lâu đã cố gắng hoàn tất một bộ quy tắc ứng xử nhằm giảm bớt căng thẳng về các
yêu sách trên biển, nhưng hiệp hội này đã đạt được rất ít tiến bộ kể từ năm
2002 khi một bộ quy tắc sơ bộ được thống nhất.
Trong 20 năm kể từ đó, Trung Quốc đã củng cố bản
đồ bằng những dấu hiệu cụ thể hơn về yêu sách của mình – xây dựng trên các bãi
đá và đảo nhỏ và mở rộng các cơ sở quân sự trên các tiền đồn nhân tạo này. Họ
cũng ủng hộ các tuyên bố của mình bằng các tàu tuần duyên, dân quân hàng hải và
đội tàu đánh cá.
Biển Đông có gì hấp dẫn đến vậy?
Vào cuối những năm 1970, Biển Đông đã trở
thành một trong những tuyến đường thương mại nổi bật nhất thế giới và các quốc
gia Đông Nam Á phát hiện các mỏ dầu khí có tiềm năng sinh lời.
Theo Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, “ước tính khoảng
11 tỷ thùng dầu chưa được khai thác và 190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên
của vùng biển này – đã gây ra sự kèn cựa giữa các bên tranh chấp là Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam”.
UNCLOS được đồng ý vào năm 1982 và được ký kết
không chỉ bởi các quốc gia ven Biển Đông mà còn cả Trung Quốc.
Tuy nhiên, dù đã ký luật nhưng Bắc Kinh vẫn tiếp
tục khẳng định chủ quyền của mình.
Ví dụ, trong phần ghi chú lưu trữ cuối cùng của
Liên hiệp quốc: “Vào ngày 12 tháng 6 năm 1985, Tổng thư ký nhận được từ Chính
phủ Trung Quốc thông báo sau: ‘Cái gọi là Quần đảo Kalayaan là một phần của Quần
đảo Nam Sa [Trường Sa], luôn luôn là lãnh thổ của Trung Quốc. Chính phủ Trung
Quốc đã nhiều lần tuyên bố rằng Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối
với Quần đảo Nam Sa cũng như các vùng biển và tài nguyên lân cận’.”
Thường thì Trung Quốc làm nhiều việc hơn là chỉ
gửi công hàm ngoại giao.
“Trong những năm 1970 và 1980, Trung Quốc đã nắm
quyền kiểm soát phần lớn Quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc Biển Đông và Đá Gạc Ma ở
Quần đảo Trường Sa ở góc phần tư phía đông nam của Biển Đông, cả hai đều nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,” Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ viết.
Tranh chấp giữa Trung Quốc và các quốc gia yêu
sách khác vẫn tiếp tục kể từ đó, với nhiều cáo buộc Bắc Kinh xâm phạm bất hợp
pháp vào vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Năm 2012, Bắc Kinh nắm quyền kiểm soát Bãi cạn
Scarborough trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines sau cuộc đối đầu kéo
dài nhiều tháng liên quan đến các tàu bán quân sự.
Vào tháng 10, cả hai lại đối đầu nhau về vấn đề
rạn san hô – với việc Philippines gỡ bỏ một chuỗi phao của Trung Quốc ngăn cản
ngư dân của Philippines.
Ngay cả trước sự cố hôm 22/10, đã có nhiều cuộc
chạm trán giữa Bắc Kinh và Manila ngoài khơi Bãi Cỏ Mây, nơi Philippines đã neo
đậu chiếc Sierra Madre vào năm 1999 và nằm cách đảo Hải Nam, vùng đất lớn gần
nhất của Trung Quốc hơn 1.000 km.
Vào tháng 8 năm nay, Philippines cáo buộc
Trung Quốc có “hành động nguy hiểm” sau khi lực lượng tuần duyên của nước này
phun vòi rồng vào các tàu Philippines đang cố gắng tiếp tế cho những người lính
đóng trên tàu Sierra Madre. Đầu năm nay, họ cáo buộc Trung Quốc chiếu “tia
laser cấp quân sự” vào các tàu.
Trung Quốc tuyên bố rằng việc cải tạo đất của
họ trên các bãi đá và rạn san hô ở vùng biển này tạo ra các quyền lợi hàng hải.
UNCLOS nói rằng mặc dù các quốc gia được phép
xây dựng đảo nhân tạo trong vùng đặc quyền kinh tế của mình nhưng những đảo
nhân tạo này “không có quy chế về đảo. Không có lãnh hải riêng và sự hiện diện
của các đảo nhân tạo không ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế hay thềm lục địa”.
Phán quyết trọng tài
Sau cuộc đối đầu ở bãi cạn Scarborough,
Philippines bắt đầu tiến hành tố tụng trọng tài chống lại Trung Quốc tại Tòa án
Trọng tài Thường trực ở The Hague.
Tòa án ra phán quyết có lợi cho Philippines, kết
luận rằng UNCLOS “thay thế mọi quyền lịch sử hoặc các quyền chủ quyền hoặc quyền
tài phán khác vượt quá giới hạn được áp đặt trong đó”.
Nói cách khác, đường chín đoạn không cung cấp
cơ sở cho các yêu sách mở rộng của Trung Quốc.
Tuy nhiên, phán quyết này hầu như không có tác
dụng gì trong việc kiềm chế Bắc Kinh. Trung Quốc tiếp tục xây dựng đảo và triển
khai lực lượng tuần duyên, tàu đánh cá và dân quân biển ở vùng biển tranh chấp.
Sau tranh cãi mới nhất về hàng rào phao ở bãi
cạn Scarborough, không có dấu hiệu lùi bước nào ở Bắc Kinh.
Sau khi gọi bãi cạn này bằng tên tiếng Trung –
đảo Hoàng Nham –phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Uông Văn Bân đưa ra cảnh báo:
“Chúng tôi khuyên Philippines không nên khiêu khích hay gây rắc rối”.
Với sự quyết đoán ngày càng tăng và thái độ
không khoan nhượng của Bắc Kinh, khó có thể thấy nước này sớm từ bỏ đường chín
đoạn.
Con tàu rỉ sét thời Thế chiến Thứ hai, chiếc
BRP Sierra Madre của Philippines hiện neo đậu tại Bãi Cỏ Mây, được xem là một
điểm nóng hiện nay tại Biển Đông.
Trong hơn hai thập niên, chiếc BRP Sierra
Madre, đã cố tình neo đậu ở vùng nước nông, xa xôi của Biển Đông đang tranh chấp
khốc liệt, mang theo cờ Philippines và đề phòng sự bành trướng của Trung Quốc.
Sierra Madre, nằm trên Bãi Cỏ Mây, thuộc quần
đảo Trường Sa, kể từ năm 1999, thực sự là một con tàu đắm. Rỉ sét đã tàn phá
các mặt tàu và các lỗ thủng hằn trên lớp vỏ con tàu. Các chuyên gia quốc phòng
đặt câu hỏi rằng nó có thể tồn tại bao lâu – và Philippines phải đối mặt với một
quyết định khó khăn về những việc cần làm tiếp theo. Mỹ cũng vậy, nước có hiệp
ước phòng thủ chung với Manila và coi Biển Đông, một trong những tuyến đường vận
chuyển nhộn nhịp nhất thế giới, có tầm quan trọng chiến lược.
Những nỗ lực của Philippines trong việc cung cấp
hàng tiếp tế cho một số thuỷ quân lục chiến đóng trên con tàu rỉ sét này đã nhiều
lần bị Trung Quốc ngăn chặn và yêu cầu phải rời tàu. Các nhà phân tích cho rằng
Bắc Kinh đang chờ đợi con tàu vỡ vụn, khiến bãi cạn không có người ở. Hôm
29/10, các tàu của Philippines và Trung Quốc đã va chạm hai lần khi Manila cố gắng
thực hiện nhiệm vụ tiếp tế, vụ mới nhất trong một loạt các cuộc đối đầu căng thẳng
trên biển.
Việc bỏ tàu sẽ đánh dấu một bước rút lui khó
khăn đối với Philippines. Ông Jaime Naval, trợ lý giáo sư tại Đại học
Philippines, cho biết Sierra Madre là “biểu tượng cho thấy chủ quyền và quyền
chủ quyền của chúng ta trải dài đến mức nào”.
Việc vận chuyển vật liệu xây dựng, thậm chí để
sửa chữa một phần Sierra Madre, rất phức tạp về mặt hậu cần – dù bằng đường
hàng không hay đường thủy.
Ông Raymond Powell, giáo sư tại Trung tâm Đổi
mới An ninh Quốc gia Gordian Knot thuộc Đại học Stanford ở Hoa Kỳ, nói: “Việc
đưa một thứ gì đó qua đường biển mà không bị cản trở là điều gần như không thể
trừ khi bạn làm điều gì đó khó có thể quan sát được nhưng không có thứ gì trong
kho của Philippines có tốc độ hoặc khả năng tàng hình để vượt qua tất cả những
điều đó”.
Bãi Cỏ Mây chỉ có một lối vào rất hẹp, có thể
dễ dàng bị chặn và các tàu Trung Quốc có thể nhanh chóng được triển khai từ Đá
Vành Khăn gần đó, nơi đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1995.
Ông nói thêm: “Đá Vành khăn về mặt nào đó thực
sự là vũ khí hoàn hảo để phong tỏa”.
Chính việc Trung Quốc chiếm giữ Đá Vành Khăn
vào năm 1995 đã khiến Manila cho mắc cạn tàu Sierra Madre ở Bãi Cỏ Mây. Cả hai
địa điểm đều cách bờ biển đảo Palawan của Philippines chưa đầy 200 hải lý và do
đó là một phần của vùng đặc quyền kinh tế của Philippines - nghĩa là
Philippines có quyền khai thác tài nguyên và xây dựng trong khu vực.
Sau những vụ va chạm gần đây mà Philippines đổ
lỗi cho hành vi “nguy hiểm, vô trách nhiệm và bất hợp pháp” của Trung Quốc khi
chặn tàu của họ, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mao Ninh cho biết lực
lượng tuần duyên Trung Quốc đã ngăn chặn “một cách hợp pháp” nỗ lực của
Philippines trong việc gửi vật liệu xây dựng” tới con tàu mà Trung Quốc nói là
Philippines đã cho mắc cạn bất hợp pháp.
Các vụ va chạm giữa tàu Trung Quốc và
Philippines tuần trước chỉ là vụ đối đầu mới nhất trong một nhiệm vụ tiếp tế.
Vào tháng 8, các tàu tuần duyên Trung Quốc đã sử dụng vòi rồng chống lại một
tàu tiếp tế tương tự của Philippines. Vào tháng 2, Manila cáo buộc Trung Quốc
chiếu tia laser cấp quân sự vào một tàu Philippines.
Các nhà phân tích đã cảnh báo rằng các cuộc đối
đầu đang trở nên căng thẳng và thường xuyên hơn, đồng thời ngày càng có nguy cơ
tính toán sai lầm trong một cuộc tranh chấp kéo dài và tế nhị.
Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết hiệp ước phòng thủ
chung giữa Manila và Washington mở rộng tới các cuộc tấn công vũ trang nhắm vào
lực lượng vũ trang, tàu công cộng và máy bay của Philippines - bao gồm cả lực
lượng Tuần duyên của nước này - ở bất cứ đâu trên Biển Đông. Nếu tình hình leo
thang, điều này có thể khiến Mỹ rơi vào tình thế đối đầu với Bắc Kinh.
Căng thẳng đã tăng lên đến mức chưa từng thấy
kể từ năm 2014, khi Philippines thả thực phẩm và nước uống xuống Bãi Cỏ Mây để
vượt qua lệnh phong tỏa do Trung Quốc áp đặt, ông Harrison Prétat, phó giám đốc
và cộng tác viên của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế, một cơ quan nghiên cứu có trụ sở tại Washington nói.
Một số người đặt câu hỏi liệu thả dù có thể được
sử dụng lại để cung cấp vật tư hay không, nhưng các nhà phân tích cho rằng đó
không phải là một lựa chọn bền vững. Viện nghiên cứu Stratbase ADR có trụ sở tại
Manila trong tuần này đã kêu gọi Manila xem xét các cuộc tuần tra chung với Mỹ
và các đối tác khác. Chủ tịch Dindo Manhit nói: “Chỉ khi hợp tác cùng nhau,
Philippines mới có thể khẳng định thành công quyền của mình”.
Ông Prétat cho biết, các cuộc tuần tra chung
cũng sẽ đặt ra những câu hỏi khó.
Hiện cũng chưa rõ cuộc tuần tra chung sẽ như
thế nào trên thực tế và điều này có thể khiến căng thẳng gia tăng thêm.
Ông Naval cho biết, các cuộc tuần tra với các
quốc gia đối tác khác ngoài Mỹ có thể giúp giải quyết câu chuyện của Bắc Kinh rằng
Washington đang sử dụng Philippines để khuấy động rắc rối trong khu vực. “Người
Trung Quốc đang cố gắng đơn giản hóa câu chuyện [cho rằng] đây chỉ là trận chiến
giữa hai con voi lớn. Thật sự là không phải vậy.”
Dưới thời tổng thống Ferdinand Marcos Jr,
Philippines đã khôi phục liên minh với Mỹ, vốn đã trở nên tồi tệ dưới thời người
tiền nhiệm Rodrigo Duterte, nhưng nước này cũng đã tăng cường quan hệ với Nhật
Bản và Australia.
Tuần trước, Tướng Romeo Brawner, Tham mưu trưởng
lực lượng vũ trang Philippines, cho biết Manila đã bắt đầu sửa chữa sơ bộ trên
con tàu.
Ông nói, thật buồn khi thấy tình trạng điều kiện
sống nơi một đội quân nhỏ đang ở. Brawner nói: “Chúng tôi đang cố gắng cải thiện
điều đó bằng cách đảm bảo rằng ít nhất họ có chỗ ngủ đàng hoàng, phòng ăn đàng
hoàng và internet”.
Trước đây, ông Naval đã phỏng vấn những người
lính được điều động lên tàu. “Nói một cách đơn giản, nó khiến bạn phát điên,”
ông nói.
Ông nói thêm, những người lính ở trong những
khu nhỏ, “mắt đối mắt với mọi người” trong nhiều tháng. Bão rất dữ dội và chẳng
có chút thoải mái nào ngoài việc chiếc TV chạy bằng pin phát đi phát lại những
bộ phim giống nhau.
Ông Powell cho biết, với tình trạng đổ nát của
Sierra Madre, không rõ nó có thể được trục vớt ở mức độ nào. Ông nói thêm rằng
việc bỏ rơi con tàu và gây bất ngờ cho Bắc Kinh bằng cách cho một tàu khác mắc
cạn ở bãi cạn gần đó có thể là một lựa chọn thay thế. Ông cho biết thêm, quân đội
có thể được chuyển đến một con tàu mới tại một đảo san hô gần bờ biển Palawan,
chẳng hạn như Bãi cạn Sabina.
Ông nói: “Đó có thể là một thất bại, nhưng đồng
thời cũng là một chiến thắng vì họ sẽ bắt đầu lại từ đầu,” ông nói và cho biết
thêm rằng các vật liệu để bảo trì lâu dài có thể được đưa lên tàu.
Ông Prétat cho biết, nếu đảo san hô không có
người ở, không rõ liệu Trung Quốc có tìm cách xây dựng trên đó hay không, vì Đá
Vành Khăn cách đó khoảng 30 km.
Không ai biết Sierra Madre đã tồn tại được bao
lâu trước khi bị thời tiết khắc nghiệt phá huỷ, nhưng ông Powell nói rằng có những
lo ngại rằng sự sụp đổ của nó có thể xảy ra trong vòng vài tháng chứ không phải
vài năm tới. “Chúng ta phải sẵn sàng cho ý tưởng rằng nó có thể bắt đầu vào
ngày mai.”
(Nguồn Al Jazeera/The Guardian)
No comments:
Post a Comment