Vì
sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với tiếng Hán?
Mối quan hệ giữa tiếng Việt với tiếng Hán là
một vấn đề lớn luôn được mọi người quan tâm và là đối tượng nghiên cứu của giới
ngôn ngữ học Việt Nam cũng như quốc tế trong gần 150 năm nay. Một số kết quả
nghiên cứu liên quan đã được công bố, trong đó tác phẩm xuất bản gần đây nhất
là cuốn “Lịch sử ngôn ngữ người Việt” [1] dày hơn 600 trang, ghi lại kết quả
ngót 50 năm nghiên cứu vấn đề trên của nhà ngôn ngữ học Việt Nam nổi tiếng –
giáo sư, tiến sĩ Trần Trí Dõi. Tác giả đưa ra một số quan điểm đáng chú ý về nguồn
gốc tiếng Việt và nguồn gốc dân tộc ta, là những vấn đề mọi người đều rất quan
tâm. Vì vậy tuy là kẻ ngoại đạo với ngôn ngữ học nhưng người viết bài này vẫn
xin phát biểu một vài ý kiến nhỏ, nếu có sai sót, mong được quý vị chỉ giáo.
Thông thường khi nghiên cứu nguồn gốc của một
ngôn ngữ, bao giờ người ta cũng trước hết định vị ngôn ngữ đó thuộc vào nhóm
ngôn ngữ nào, nhánh ngôn ngữ nào, cuối cùng thuộc ngữ hệ nào. Hiểu đơn giản,
ngữ hệ (họ ngôn ngữ, language family) là tên gọi chung một tập hợp các ngôn ngữ
có cùng nguồn gốc; như vậy các ngôn ngữ khác ngữ hệ thì không có chung nguồn
gốc.
Sách “Lịch sử ngôn ngữ người Việt” có nêu vấn
đề cha cố J. S. Theurel từng đưa ra nhận xét “tiếng Việt phần lớn bắt nguồn từ
tiếng Hán” – có ghi trong cuốn Dictionarium Anamitico - Latinum (Từ điển
Annam-Latin) của Theurel, ấn hành tại Ninh Phú (Kẻ Sở) năm 1877 [2]. Nhận xét
này dựa trên chứng cớ hiển nhiên là trong tiếng Việt có rất nhiều từ gốc Hán và
có một số hiện tượng ngữ pháp rất giống tiếng Hán, vì thế được một số người tán
đồng, hình thành quan điểm cho rằng ngôn ngữ của người Việt có nguồn gốc ở tiếng
Hán, tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Hán của ngữ hệ Hán-Tạng
(Sino-Tibetan), nghĩa là tiếng Việt, tiếng Hán có chung ngữ hệ, tức chung nguồn
gốc. Từ đó suy ra người Việt có nguồn gốc ở phương Bắc, về sau di cư xuống miền
Nam. Rốt cuộc vấn đề này có liên quan tới nguồn gốc dân tộc ta.
Năm 1912, nhà khoa học người Pháp ở Viện Viễn
đông Bác cổ Henri Maspéro (1883-1945) nhận định tiếng Việt có nguồn gốc nhóm
tiếng Thái (Taic). Căn cứ vào những chứng cớ mới rất chi tiết và có tính hệ
thống chủ yếu về ngữ âm, dựa trên lập luận chặt chẽ, Maspéro đưa ra những kết
luận thuyết phục được giới ngôn ngữ học suốt nửa thế kỷ sau đó, thậm chí sang
thế kỷ XXI vẫn có người ủng hộ. Hiện nay ta biết, tiếng Thái thuộc ngữ hệ
Tai-Kadai, khác với ngữ hệ của Hán ngữ, như vậy nghĩa là Maspéro cho rằng tiếng
Việt không cùng nguồn gốc với tiếng Hán.
Nhưng đến các năm 1953, 1954 và 1966, một nhà
ngôn ngữ học người Pháp rất nổi tiếng là André-Georges Haudricourt (1911-1996)
công bố mấy bài báo phản bác quan điểm nói trên, cho rằng tiếng Việt có nguồn
gốc Môn-Khmer, thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), nghĩa là không cùng nguồn
gốc với tiếng Thái hoặc tiếng Hán. Lập luận của Haudricourt rất vững chắc và có
nhiều chứng minh đầy sức thuyết phục, được nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam và
nước ngoài tán thành.
Trong nghiên cứu, các học giả đều xem xét mối
quan hệ đối ứng từ vựng giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ đối chiếu và chia từ
vựng làm hai lớp: từ cơ bản và từ văn hoá. “Từ cơ bản” là những từ vựng thông
dụng nhất, như từ mô tả các bộ phận cơ thể con người (chân, tay, mắt, mũi), từ
nhân xưng (bố, mẹ, con, tôi, tao, mày), tên các vật xung quanh (nhà, cửa, trời,
đất, trăng, sao), số đếm (một, hai, ba), tên gia súc (chó, mèo, trâu, bò, lợn),
nhu cầu sống (ăn, uống, bú, ỉa, đái), cảm nhận (đau, giận, vui, buồn), v.v., là
những từ liên quan tới nguồn gốc con người, nguồn gốc ngôn ngữ, là những từ con
trẻ nói được khi bắt đầu biết nói, chưa bị ảnh hưởng của ngôn ngữ khác. Từ
thuần Việt trong tiếng Việt hoặc từ thuần Hán trong tiếng Hán đều thuộc loại từ
cơ bản.
Những từ ngữ có được sau khi tiếp xúc với một
nền văn hoá khác thì thuộc loại “từ văn hoá”, thường là những từ có tính chất
trừu tượng, tư tưởng, khái niệm, thuộc lĩnh vực văn hoá, ví dụ: đông, tây, đạo,
lý. Từ văn hoá thường xuất hiện sau từ cơ bản hàng nghìn năm, vì thế nó không
có liên quan đến nguồn gốc ngôn ngữ. Khi xác định nguồn gốc ngôn ngữ, nhất
thiết phải dựa vào các từ cơ bản mà không dựa vào các từ văn hoá.
Sau khi phân loại từ vựng, Haudricourt nhận
thấy số lượng từ thuần Việt tương ứng với từ trong ngôn ngữ Môn-Khmer thì nhiều
hơn số lượng từ thuần Việt tương ứng với từ trong tiếng Thái, từ đó ông kết
luận tiếng Việt có nguồn gốc Môn-Khmer chứ không phải có nguồn gốc Thái. Khi
nghiên cứu vấn đề thanh điệu của tiếng Việt, ông cũng đi tới kết luận như vậy.
Từ vựng tiếng Việt hiện đại gồm từ thuần Việt,
từ Việt gốc Hán (tức từ Hán-Việt), và từ ngoại lai. Từ thuần Việt ra đời cùng
với tiếng Việt, gắn với nguồn gốc dân tộc, thể hiện tính cội nguồn của ngôn
ngữ, thuộc vào lớp từ cơ bản. Từ Việt gốc Hán ra đời sau khi nước ta tiếp xúc
nền văn hoá Trung Hoa, cho nên thuộc lớp từ văn hoá. Từ ngoại lai ra đời sau
khi Việt Nam tiếp xúc văn hoá Âu Mỹ, ví dụ các từ pho mát, ô tô, sô (show),
ây-ai (AI).
Từ Hán-Việt là loại từ vựng do tổ tiên ta sáng
tạo ra trong quá trình tiếp nhận chữ Hán. Thông thường người học chữ Hán đều
phải đọc chữ theo âm tiếng Hán. Nhưng chữ Hán lại không có phát âm thống nhất
trong toàn Trung Quốc, mà mỗi vùng phát âm theo cách riêng gọi là phương ngữ
(tiếng địa phương). Người Trung Quốc sang ta nói nhiều phương ngữ khác nhau,
người Việt không biết nên đọc chữ Hán theo cách phát âm nào, đây là khó khăn
lớn nhất khi họ học chữ Hán.
Để vượt qua khó khăn trên, tổ tiên ta đã sáng
tạo ra cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt mà không đọc theo âm Hán, tức Cách
phiên âm chữ Hán thành từ Hán-Việt. Mỗi chữ Hán đơn âm được phiên âm thành một
từ Hán-Việt, từ này có âm đọc thống nhất trong toàn dân Việt, gọi là âm
Hán-Việt. Âm đọc ấy được chọn gần giống âm đọc từ vựng tiếng Hán, vì thế hầu
hết từ Hán-Việt đọc lên nghe gần giống từ tiếng Hán. Ví dụ chữ 文tiếng Hán đọc “uấn”, ta đọc tiếng Việt là “văn”. Qua đó đã thực hiện phiên âm toàn bộ chữ Hán sang
tiếng Việt, mượn được toàn bộ kho chữ Hán về dùng, nhưng chỉ mượn chữ Hán mà
không mượn tiếng Hán. Do tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngôn ngữ đơn âm tiết
(đơn lập, monosyllabic) nên việc phiên âm một đối một tương đối thuận tiện. Từ
Hán-Việt là kết quả phiên âm chữ Hán, và chữ Hán trở thành ký tự ghi từ
Hán-Việt, nhưng không ghi được từ thuần Việt. Ví dụ chữ Hán 文化 ghi từ Hán-Việt “văn hoá”.
Từ Hán-Việt là từ vay mượn của chữ Hán. Nhờ
mượn thêm từ ngoại nên kho từ vựng tiếng Việt tăng lên nhiều và ngày càng tăng.
Năm 1912 Maspéro nói từ Hán-Việt chiếm 60% tổng số từ tiếng Việt. Năm 2001 Cao
Xuân Hạo nói tỷ lệ này là 70%. Nghĩa là chữ Hán vào Việt Nam đã làm số lượng từ
tiếng Việt tăng 2,5-3 lần. Trong thực tế, người Việt dùng từ rất linh hoạt, như
ghép với từ thuần Việt (tái đàn, cận nghèo) hoặc ghép từ Hán-Việt với nhau
không theo quy tắc giữ gốc Hán (bán dẫn, giải ngân), cho nên kho từ vựng tiếng
Việt có khả năng tăng vô hạn.
Từ Hán-Việt còn giúp người Việt thuận lợi
chuyển ngữ các từ vựng ngoại văn: khi ấy chỉ cần đọc âm Hán-Việt của từ Hán
hoặc từ Kanji mà người Trung Quốc hoặc người Nhật chuyển ngữ từ ngoại văn đó,
là được kết quả. Ví dụ từ tiếng Anh “pragmatism”, người Nhật chuyển sang chữ
Kanji là 實用主義, ta đọc Hán-Việt là “thực dụng chủ nghĩa”, được ngay
kết quả cần tìm.
Tóm lại sáng kiến phiên âm chữ Hán thành từ
Hán-Việt đã giúp người Việt thuận lợi tiếp nhận chữ Hán mà hoàn toàn không nói
tiếng Hán, đồng thời làm cho kho từ vựng tiếng Việt có khả năng phát triển hầu
như vô hạn. Đây là một thành tựu kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ tiên ta.
Thế nhưng không thể vì tiếng Việt có nhiều từ
gốc Hán mà cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc ở tiếng Hán, bởi lẽ từ Hán-Việt
không phải là từ cơ bản, mà thuộc lớp từ văn hoá, chỉ xuất hiện sau khi người
Việt tiếp xúc văn hoá Trung Hoa, tức khi nước ta bị Triệu Đà thôn tính và người
Việt bắt đầu học Hán ngữ, nghĩa là sau từ thuần Việt nhiều nghìn năm, do đó từ
Hán-Việt dù nhiều đến đâu cũng không ảnh hưởng gì đến nguồn gốc tiếng Việt.
Khi so sánh các từ thuần Việt với các từ thuần
Hán, cũng không thấy từ thuần Việt nào có âm đọc giống với từ thuần Hán tương
ứng. Sự khác nhau về từ cơ bản chứng tỏ tiếng Việt không cùng nguồn gốc với
tiếng Hán. Điều đó còn được chứng tỏ ở chỗ tiếng Việt có ngữ âm phong phú (gấp
14 lần tiếng Hán) và ngữ pháp khác tiếng Hán. Từ Hán-Việt được dùng theo ngữ
pháp tiếng Việt, do đó người Trung Quốc không thể nghe hiểu câu tiếng Việt có
nhiều từ Hán-Việt, tuy rằng nhìn chữ thì hiểu. Nghĩa là tiếng Việt tuyệt đối không
phải là một phương ngữ của tiếng Hán.
Từ Hán-Việt chỉ là từ vay mượn (loan words)
Hán ngữ. Các ngôn ngữ trên thế giới đều có vay mượn từ vựng của các ngôn ngữ
khác. Tiếng Trung Quốc hiện đại có khoảng 70% từ thuộc lĩnh vực khoa học xã
hội-nhân văn là từ vay mượn tiếng Nhật. Đó là những từ vựng người Nhật chuyển
ngữ từ tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha… sang chữ Kanji (chữ Hán-Nhật), ví dụ các
từ government, people, economy chuyển ngữ thành chính phủ, nhân dân, kinh tế.
Ngôn ngữ học cho biết: từ văn hoá thường dễ vay mượn, còn từ cơ bản thì hiếm khi
có vay mượn. Ví dụ tên tiếng Việt gọi các bộ phận cơ thể con người khác xa tên
gọi tương ứng trong các thứ tiếng khác. Thiển nghĩ có thể suy ra ban đầu dân ta
chỉ nói các từ thuần Việt, sau khi tiếp nhận chữ Hán thì bắt đầu nói các từ
Hán-Việt, và ngày càng nói nhiều, nhất là khi nói đề tài xã hội, thời sự, nghị
luận, đặc biệt trong văn bản, sách báo. Như trong Hiến pháp Việt Nam, tỷ lệ từ
Hán-Việt lên tới khoảng 90%.
Hiện nay giới ngôn ngữ học chính thống Việt
Nam và thế giới xếp tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á, nhánh Môn-Khmer, nhóm tiếng
Việt (Vietic, Việt-Mường); Hán ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Việc tiếng Việt,
tiếng Hán thuộc hai ngữ hệ khác nhau chứng tỏ ngôn ngữ Việt không cùng nguồn
gốc với ngôn ngữ Hán. Đây là một kết luận quan trọng thu được sau 150 năm
nghiên cứu vấn đề nguồn gốc tiếng Việt. Trên cơ sở ấy GS Trần Trí Dõi nhận
định: Như vậy thì cội nguồn văn hoá Việt Nam cũng không thể chung nguồn gốc với
văn hoá Hán.
Thiển nghĩ vì tiếng Việt khác ngữ hệ với các
ngôn ngữ Bách Việt, suy ra tiếng Việt cũng không cùng nguồn gốc với các ngôn
ngữ Bách Việt, ví dụ nghiên cứu của Lương Đình Vọng cho rằng Tráng ngữ là hậu
duệ của ngôn ngữ Lạc Việt [3] thuộc ngữ hệ Tai-Kadai, các ngôn ngữ khác của
Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Tác giả sách Lịch sử ngôn ngữ người Việt còn
đưa ra một nhận định quan trọng: Về mặt ngôn ngữ, đã có đủ cơ sở để cho rằng
cộng đồng người nói tiếng Việt thực sự là một trong những cộng đồng cư dân bản
địa chính từ thời tiền sử của vùng Đông Nam Á văn hoá, chứ hoàn toàn không phải
là những cư dân di cư từ phương Bắc tới. Đây là một quan điểm đúng đắn về lịch
sử dân tộc Việt, là kết quả nghiên cứu dựa trên sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ
của dân tộc trong sự so sánh với ngôn ngữ các dân tộc ở gần, tức dựa trên các
nguyên tắc có căn cứ khoa học tin cậy của ngôn ngữ học lịch sử và so sánh
(Historical-Comparative Linguistics).
Kết luận nói trên cho thấy dân tộc Việt được
hình thành trên mảnh đất này từ thời tiền sử, tức khoảng hơn 20 nghìn năm
trước. Theo thuyết “Đi khỏi châu Phi” (Out of Africa), có thể trước đó tổ tiên
ta từ châu Phi di cư tới đây. Năm 1923, nhà khảo cổ Madeleine Coloni phát hiện
di cốt người Việt cùng nền văn hoá của họ trong hang đá ở tỉnh Hoà Bình, các di
vật này có niên đại 18.000 năm trước Công nguyên. Hiện nay Trung tâm Nghiên cứu
Tiền sử Đông Nam Á của Tiến sĩ Nguyễn Việt vẫn tiếp tục khai quật di vật của
nền Văn hoá Hoà Bình.[4].
Lịch sử lâu đời giúp cho người Việt có đủ thời
gian tạo được một ngôn ngữ chín muồi, cực giàu âm tiết (syllable). So với Hán
ngữ, tiếng Việt có số âm tiết cơ bản nhiều gấp 10 lần, số âm tiết chi tiết gấp
14 lần. [5], [6], [7]. Ưu thế đó làm cho tiếng Việt trở nên vững bền không dễ
bị đồng hoá bởi các ngôn ngữ nghèo ngữ âm như Hán ngữ.
Thiển nghĩ, kết luận người Việt “hoàn toàn
không phải là cư dân di cư từ phương Bắc tới” cho thấy dân tộc ta thời cổ không
có quan hệ gần gũi với các dân tộc ở phía Bắc biên giới Trung-Việt, với nhóm bộ
tộc gọi là “Bách Việt”, chẳng những về địa lý ở xa cách họ mà về ngôn ngữ hoàn
toàn không chung nguồn gốc: ngôn ngữ các tộc đó đều thuộc ngữ hệ khác ngữ hệ
của tiếng Việt. Có thể suy ra người Việt nguyên thuỷ sống ở vùng núi Sơn La-Hoà
Bình-Thanh Hoá, về sau các bộ tộc người Kinh di chuyển dần xuống vùng trung du
Yên Bái, Phú Thọ, trong khoảng 2000 năm gần đây di chuyển dần xuống vùng châu
thổ sông Hồng sau khi con sông này hoàn thành việc bồi đắp vùng cuối sông. [8].
Riêng các bộ tộc người Mường anh em gần nhất của người Kinh thì vẫn ở lại vùng
núi cho đến nay.
Cần nhấn mạnh, việc người Việt dùng chữ Hán
nhưng hoàn toàn không nói tiếng Hán đã mang lại kết quả tất nhiên là tuy văn
hoá Việt trong hơn 1000 năm Bắc thuộc từng bị Hán hoá mạnh mẽ, nhưng tiếng Hán
không thể đồng hoá được ngôn ngữ của người Việt. Nhờ giữ được nguyên vẹn tiếng
mẹ đẻ mà dân tộc cùng quốc gia này tồn tại đến ngày nay – đây là thắng lợi vĩ
đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ai cũng biết văn hoá Hán có sức đồng
hoá rất mạnh. Ví dụ dân tộc Mãn từng chiếm đóng cai trị Trung Quốc 276 năm, thời
kỳ đầu họ ra sức Mãn hoá ngôn ngữ và văn hoá của người Hán, nhưng chỉ sau một
thế kỷ, chính họ lại bị Hán hoá, toàn bộ dân tộc Mãn chỉ nói tiếng Hán, dùng
chữ Hán.
Thời Bắc thuộc có nhiều người Bách Việt (chủ
yếu là binh lính) sang Việt Nam định cư, ngôn ngữ của họ có tác động đến kết
quả phiên âm chữ Hán, tức từ Hán-Việt. Ví dụ chữ Hán 学习tiếng Quảng Đông là “hoọc chập”, từ Hán-Việt là “học tập”, tuy rằng tiếng Bắc Kinh
là “xuế xí”. Nhưng vì họ nhanh
chóng bị Việt Nam
hoá (lấy vợ Việt, con
cháu nói tiếng Việt) cho
nên ảnh hưởng của ngôn ngữ Bách Việt đối với tiếng Việt hầu như không có gì đáng kể.
Tóm lại, tiếng Việt là ngôn ngữ gần gũi nhất
với Hán ngữ và chịu ảnh hưởng lớn của Hán ngữ nhưng lại không cùng nguồn gốc
với Hán ngữ và không bị Hán hoá cho dù Việt Nam từng là quận huyện của Trung
Quốc trong hơn 1000 năm. Chẳng rõ còn có dân tộc nào khác từng làm được điều kỳ
diệu tương tự?
Ghi chú:
[1] Trần Trí Dõi: “Lịch sử ngôn ngữ người Việt
– Góp phần tìm hiểu văn hoá Việt Nam”, Nxb ĐHQGHN, 2022.
[2] Joseph Simon Theurel, 1829-1868, người
Pháp, Giám mục Giáo phận Hà Nội 1859-1868. Nhà thờ Kẻ Sở (Ninh Phú) ở thị trấn
Kiện Khê, Hà Nam thuộc Giáo phận Hà Nội là một trong bốn nhà thờ ở Việt Nam
được phong là Vương cung Thánh đường.
[3] 梁庭望: 《骆越方国研究》民族出版社, 2017年.
[4] “Văn hoá Hoà Bình: Nền văn hoá tiền sử độc
đáo”. Báo Điện tử Chính phủ, 30/8/2023.
[5] Nguyễn Quang Hồng: “Âm tiết và loại hình
ngôn ngữ”, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1995.
[6] 苏培成: “二十世纪的现代汉字研究”, 书海出版社, 2001年.
[7] Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn
ngữ”, tạp chí Tia Sáng số 11/2020.
[8] Li Tana: “A Historical Sketch of the
Landscape of the Red River Delta” Cambridge University Press, 2016.
------------
Bài đã đăng t/c Tia Sáng số 20 tháng 10/2023,
các mạng
https://dongtac.hncity.org/spip.php?article7735
http://vanviet.info/.../v-sao-tieng-viet-khng-cng-nguon.../
ngày 28/10/2023.
Chân thành cảm ơn nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng
đã góp ý cho bài này.
231018NHHFB 6:17AM
Vì sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với tiếng Hán? | Văn
Việt
Nghiên
cứu Phê bình 28 Tháng Mười, 2023 Vì sao tiếng Việt không cùng nguồn gốc với
tiếng Hán?
Mối quan hệ giữa tiếng Việt với tiếng Hán là
một vấn đề lớn luôn được mọi người quan tâm và là đối tượng nghiên cứu của giới
ngôn… . .
.
No comments:
Post a Comment