Thứ Năm, 10/19/2023 - 03:06 — tuongnangtien
https://www.rfavietnam.com/node/7800
Tôi xa quê đã lâu, lâu đến nỗi không còn
có thể nói hay đọc được tiếng mẹ đẻ một cách lưu loát và trôi chẩy
nữa. Trên đường lưu lạc, có hôm, tôi lỡ bước đến Ayutthaya –
nơi được vua U Thong chọn làm kinh đô của Xiêm La, từ thế kỷ XIV.
Nhìn thành quách, đền đài, phế tích
điêu tàn giữa ánh nắng chiều mà không khỏi bùi ngùi, và chợt nhớ
đến bài thơ (“Thăng Long Hoài Cổ”) của Bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương …
Vì vốn liếng biết tiếng Việt nghèo nàn
(và vì cách dụng từ có khuynh hướng hàn lâm của tác giả) nên tôi
không dám chắc là đã hiểu hết được cái tâm cảm áo não của bà, sau
một cuộc bể dâu. May mắn là ngay bên dưới bài thơ thượng dẫn còn có
thêm vài
câu chú thích, tuy ngắn gọn nhưng khá tường tận:
“Thăng Long là kinh đô nước ta từ đời nhà Lý đến
đời nhà Lê, đến đời Minh Mệnh nhà Nguyễn thì đổi ra tỉnh Hà Nội. Đi qua cố đô,
Bà huyện Thanh Quan, đại biểu cho giai cấp sĩ phu Bắc Hà, bâng khuâng trước sự
di đô đổi triều, đau lòng trước sự tang thương.”
Thì ra là thế!
Tôi vốn không sính chuyện thơ văn (và
cũng chả có tinh thần nghinh tân hay hoài cựu gì sất cả) nên hoàn
toàn không cảm thấy “bâng khuâng” chi hết, “trước sự di đô đổi triều
tang thương” xẩy ra trong thời đại của chính mình. Điều may mắn là dân
Việt không chỉ toàn cái thứ thất phu và vô cảm như tôi nên mọi diễn
biến thời cuộc, cùng tâm tình của thế nhân, đều đã được giới “sỹ
phu Bắc Hà” ghi nhận:
·
Lê Phú Khải:
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng
nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của
cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu tố …”
·
Nguyễn
Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời
chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những
người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được
tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.”
·
Nguyễn Văn
Luận: “Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe
ngóng từng ‘chính sách’ mới ban hành… Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần
tem gạo, 3 mét vải ‘cung cấp’ một năm theo ‘từng người trong hộ’. Mẹ may thêm
chiếc quần ‘đi lao động’ thì con nít cởi truồng.”
·
Bùi
Ngọc Tấn: “Quản lý chặt dạ dày, hộ khẩu, duy trì tình trạng thiếu đói cả ở
nông thôn và thành phố, chia nhau từng mét chỉ, nửa cây kim, nửa cái bát sành…”
Cuộc hý trường kế tiếp, xẩy ra 21 năm
sau (năm 1975) cũng thê lương và thảm thương không kém: Nam Kỳ
Khởi Nghĩa tiêu Công Lý/ Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do! Tuy đã mất
tự do và công lý nhưng nhiều người cầm bút vẫn còn giữ được lương
tâm, và đã khẳng khái nói lên mọi cảm nghĩ chân thật của mình, dù
thuộc bên thắng cuộc:
·
Nhà văn Dương
Thu Hương: “Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến
thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ.”
·
Nhà thơ Phan
Huy: “Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô/ Giận đảng giận đoàn bao năm
phỉnh gạt.”
·
Nhà báo Trần
Quang Thành: “Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt
Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới.”
·
Nhà báo Huy
Đức: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa
của chúng tôi.”
Nó khác ra sao?
Ông Châu
Hiển Lý (bộ đội tập kết) cho biết: “Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh
quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội
chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. ‘Tính hơn hẳn’ của
chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt
cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”
Với thời gian, cùng với sự “tồi dở” và
“thối nát về mọi mặt” mỗi lúc được “phơi bầy rõ rệt” hơn, dân Việt
đều trở nên hoài cổ ít nhiều. “Bao giờ trở lại ngày xưa?” (hay “Ngày
xưa ơi biết bao giờ trở lại?”) có lẽ là lời than thở đầu môi, sau
mỗi cuộc hý trường ở đất nước này:
-Nguyễn Đình Toàn
(1936 – ) : Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên/ mất từng con
phố đổi tên đường/khi hẹn nhau ta lạc lối tìm/ ôi tình buồn như đã sống thêm (Sài
Gòn Niềm Nhớ Không Tên).
-Hoàng Anh Tuấn
(1932 – 2006) : Mưa hoàng hôn, năm cửa ô sầu hắt hiu trong ngục tù/ Tủi
thân nhớ bao ngàу qua/ Mưa ngùi thương nhòa trên giòng sông Hồng Hà/ Ôi còn đâu
vàng son mùa thơ hiền hòa/ Đau lòng Tháp Rùa, Thê Húc bơ vơ, Thành Đô xác
xơ! (Mưa Sài
Gòn Mưa Hà Nội).
-Vũ Thành (1926 –
1987) : Rồi đây dù lạc ngàn nơi / Ta hướng về chốn xa vời/ Tìm mộng xưa
lãng quên tháng ngày tàn phai/ Nghẹn ngào thương nhớ em ... Hà Nội ơi! (Giấc Mơ Hồi Hương).
Tuy kẻ mất người còn nhưng Nguyễn Đình
Toàn, Hoàng Anh Tuấn, Vũ Thành … đều thuộc về một thế hệ đã qua.
Họ có “dĩ vãng vàng son” để mà hoài cổ, và đó là chuyện thường
tình. Điều bất thường là lớp trẻ bây giờ cũng thế, cũng có khuynh
hướng … nhìn lui!
Ngày 4 tháng 10 năm vừa qua, nhà
báo Lê
Anh Hùng đã ghi lại một bức ảnh của chính ông, trong bộ cánh
rất chỉnh tề và lịch sự, cùng với câu hỏi: “Bao giờ cho đến ngày
xưa?”
Ngày xưa nào?
Lê Anh Hùng sinh năm 1973. Ông chào đời
chưa bao lâu thì “cả nước
đã quy về một mối, một mối hận thù, một mối đau thương”!
Tuổi thơ, cũng như tuổi trẻ của ông (e ) đều không êm đềm hay tươi vui
lắm. Vậy mà ông vẫn hoài cảm (hay hoài cổ) thì nghĩ cũng hơi kỳ. Cuộc
sống (xem chừng) mỗi lúc một tệ hại hơn với tất cả mọi người dân
Việt, bất kể tuổi tác hay thành phần – trừ đám lãnh đạo ở đất
nước này:
·
Nguyễn
Phú Trọng: “Nhìn tổng quát, đất nước có bao giờ được như thế
này không?”
·
Nguyễn
Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với bạn
bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do chúng ta
duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”
·
Nguyễn
Xuân Phúc: “Việt Nam tuy là nước có thu nhập thấp nhưng có chỉ số hạnh
phúc cao thứ 5 thế giới.”
·
Nguyễn
Mạnh Hùng: “Tôi có một niềm tin rằng người Việt Nam sẽ làm ra những thứ
mà thế giới chưa từng làm”.
Sự tự tín, lạc quan và tin tưởng (hay
hoang tưởng) của họ không khỏi khiến tôi nhớ những câu than trách của
nhà báo Nguyễn Thông :
“Đám cai trị xứ này cũng không hẳn là mù mắt, nhưng sự mù đầu mù óc, mù tư duy,
suy nghĩ thì quá rõ. Như các cụ xưa bảo, đường quang chẳng đi lại đâm quàng bụi
rậm. Quờ quạng cây gậy lý luận khua khoắng dò đường, chỉ đâm vào ngõ cụt.”
Sau cả nước “đâm quàng vào bụi rậm” rồi
toàn dân lại “đâm vào ngõ cụt” thì hỏi ai mà không hoài cổ?
No comments:
Post a Comment