Câu chuyện của 3 thương
phế binh VNCH.
Thứ Tư, 10/18/2023 - 17:20 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/7799
Câu chuyện của ông Nguyễn Văn Thuận, lính bộ binh:
Ông Nguyễn Văn Thuận, sinh năm 1956 tại tỉnh
Thừa Thiên-Huế. Ba là người Pháp, khi người mẹ đang mang bầu ông được mấy tháng
thì người cha về nước. Sau khi hạ sinh cậu bé Thuận ở Bệnh viện Trung ương Huế,
người mẹ cũng bỏ núm ruột mà đi về thế giới bên kia vì sinh khó. Ông Thuận
không biết gì về cha mẹ mình kể cả cái tên, chỉ biết khi lớn lên nghe người ta
kể lại cha ông làm cái nghề gọi là “ông Tây nhà đèn”, tức là làm việc trong những
nhà máy đèn tại các thành phố lớn, còn người mẹ làm bồi phòng cho người Pháp.
Cậu bé sơ sinh được đưa qua bên Cô Nhi Viện
Tây lục, Thừa Thiên-Huế. Các bà Sơ tại đây nuôi nấng, chăm sóc cậu bé Thuận rất
tốt, nhưng cậu vì ham chơi nên không học hành được gì nhiều. Từ năm 13 tuổi cậu
bắt đầu ra đời, mưu sinh bằng nghề đánh giày, nhưng thỉnh thoảng cũng ghé về
thăm các Sơ. Trong số các Sơ ở đó, cậu vẫn còn nhớ nhất Sơ Hai, khi đó khoảng
hai mươi mấy, ba mươi tuổi, thường nâng đỡ tinh thần cậu. Nhiều năm sau này
trên đường đời cậu cũng gặp lại Sơ Hai, tại một trung tâm nuôi dưỡng trẻ em mồ
côi gần Ga Sóng Thần, thuộc tỉnh Bình Dương. Từ ngoài Huế, Sơ Hai chuyển vào
đây tiếp tục chăm sóc những đứa trẻ mồ côi, bất hạnh. Còn cậu bé và cậu thiếu
niên tên Thuận ngày nào thì đã trở thành thương phế binh của một quân đội và một
quốc gia không còn tồn tại. Sơ Hai cũng đã qua đời, cách đây khoảng 20 năm.
Trong những năm tháng đi đánh giày, cậu gặp những
người lính Việt Nam Cộng Hòa và thấy thích sự oai hùng của họ, ước gì mình cũng
được là lính như họ. Đầu năm 1974 anh thanh niên tên Thuận đăng ký nhập ngũ đi
lính.
Anh bắt đầu đời lính sau khi được huấn luyện 3
tháng tại trung tâm huấn luyện Dạ Lê, Thừa Thiên-Huế của sư đoàn 1. Và từng
tham gia nhiều trận đánh quanh khu vực Thừa Thiên-Huế, trận cuối cùng bị thương
là ở quận Hương Trà, Huế. Lúc đó chiến cuộc gần tàn. Trận đánh cầm cự kéo dài từ
ngày 5/3/1975, anh Thuận bị thương vào ngày 23/3/1975. Do vừa đánh vừa rút nên
lúc rút đi anh Thuận vướng mìn, bị thương nặng, cả chân, tay, mắt. Đại đội được
lệnh rút quân, đem theo những người lính bị thương trong đó có anh Thuận, về tới
bến cảng Thuận An-Huế là sáng 24/3. Đồng đội định đưa anh vào bệnh viện nhưng
lúc đó Huế đã gần mất, mọi thứ đều hỗn loạn, không còn Bệnh viện nào hoạt động
hết. Vì thương tật quá nặng anh Thuận không đi đâu được, nằm tại chỗ, cho tới
sáng 25/3 mấy bà sơ ở bên Nhà thờ Thuận An kéo anh vô Nhà Thờ để băng bó, rửa
nước sôi chứ cũng không có thuốc men, dụng cụ gì khác.
Ngày 26/3/1975 Huế mất vào tay cộng sản Bắc Việt.
Sau đó vài ngày bộ đội Bắc Việt di chuyển các thương binh VNCH về trạm xá An
Dương, huyện Thuận An, tại đây các bác sĩ cưa chân anh, cưa “sống”, không có
thuốc mê, thuốc tê gì. Anh bị cụt cả hai chân dưới đầu gối, mất 4 ngón tay, mù
1 mắt.
***
Nhớ lại quãng thời gian đi lính ông Thuận tâm
sự: - Đời lính chú nói thật lòng là chú thấy vui nhiều hơn buồn, vì mình cầm
cây súng mình tự hào là một quân nhân của VNCH, bên cạnh đó là tình đồng đội,
anh em bốn phương một nhà. Còn buồn chẳng hạn như hôm nay bạn mình có người nằm
xuống, hay như chính mình bị thương. Nhưng mình cứ nghĩ cuộc đời binh nghiệp
thì phải chấp nhận, vì là lính đi ra chiến trường không mất mát một phần thân
thể thì cũng mất mạng, mình đã biết trước những điều đó, nhưng vẫn đi, bởi vì
đó là bổn phận, danh dự, trách nhiệm của một người lính, mình phải làm cho tròn
mà thôi.
Vì thời gian vào lính chưa được bao lâu nên đến
lúc bị thương, ông Thuận cũng chưa có cấp bậc gì.
Nằm ở trạm xá 10 ngày những người cộng sản đưa
ông Thuận về Bệnh viện Trung ương Huế. Ông nằm ở đó khoảng 1 tháng.
Những ngày cuối cùng từ lúc bị thương ông Thuận
không biết tin tức gì về chiến trận đang diễn ra. Khi thấy Việt Cộng vô thì ông
cũng nghĩ “gió đi rồi gió về”, ông cứ mang cái hy vọng như vậy hoài từ năm này
sang năm khác. Cho đến giờ, gần nửa thế kỷ, thì hoàn toàn không còn hy vọng gì
nữa, những nỗi niềm khắc khoải trong lòng như cũng chai lì luôn rồi.
Cảm giác bị phân biệt đối xử đã có từ những
ngày nằm trong Bệnh viện. Ông Thuận tâm sự: - Trong Bệnh viện lính miền Nam nằm
khu riêng, lính miền Bắc nằm riêng. Thuốc tốt trong Bệnh viện của VNCH để lại
thì họ ưu tiên chữa cho lính của họ, chứ còn thương binh của VNCH như chú là
không bao giờ có. Thời gian đó bác sĩ, y tá của miền Nam một số còn được giữ lại
phục vụ, chú yếu để cho những người mới từ ngoài Bắc vào hoặc “thành phần cốt
cán” của cách mạng học hỏi, sau khị biết rồi thì họ đuổi những người cũ của miền
Nam ra, còn người nào có chức có quyền thì bị đưa đi cải tạo, đi tù luôn.
Cho tới 30/4/75 vết thương của ông Thuận vẫn
chưa lành, cái chính vì không có thuốc, chỉ có thuốc xuyên tâm liên, đau bịnh
gì cũng cứ xuyên tâm liên. Loại thuốc này đâu có chữa trị được vết thương,
nhưng họ đưa gì thì ông uống nấy, chứ đâu có đòi hỏi được.
Sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng
vào ngày 30/4/1975 thì sáng ngày 1/5 những người cộng sản đuổi ông và tất cả những
người lính bị thương của VNCH còn đang phải điều trị ra khỏi Bệnh viện, không
cho nằm nữa.
Bị đuổi ra, vì không có nhà cửa, ông Thuận phải
đi lang thang. Thân thể không lành lặn, không có nguồn thu nhập nào, ông Thuận
trở thành một người ăn mày ăn xin giữa chợ, giữa đường phố để sống qua ngày. Thời
gian đó các tiệm pharmacy thì nhà nước đã tịch thu hết, nhưng ở ngoài chợ có những
tiểu thương bán thuốc lậu, người cho ông Thuận thuốc này người cho thuốc kia,
cho bông gòn, thuốc đỏ, băng…Nói chung người dân ở cái chợ Đông Ba đó cũng giúp
ông nhiều, có lẽ vì họ biết đây là thương phế binh của VNCH.
Thỉnh thoảng ông Thuận gặp lại bạn bè đồng đội,
cả đại đội trưởng, cuộc sống của ai cũng thay đổi, theo đúng nghĩa nước mất thì
nhà tan, có người đi bán vé số, có người đạp xe thồ, đạp xích lô, đi bán cà
rem, bán đủ thứ. Gặp nhau thầy trò, bạn bè ngồi uống cà phê nói chuyện xưa
nhưng cũng không dám nói nhiều bởi vì cái thời đó chính quyền mới rất hà khắc,
nghiêm cấm, không cho những người cũ tụ tập với nhau. Gặp nhau chào hỏi nói sơ
vài câu rồi đi.
Vì không có cấp bậc và là thương phế binh nên
ông Thuận không bị bắt đi học tập cải tạo.
Đầu năm 1976 có đợt truy quét người lang
thang, ông Thuận bị gom luôn. Ở tại Huế trước đây có cái quân lao gọi là Lao Thừa
Phủ, ông Thuận bị đưa vào đó cũng gần 6 tháng. Sau 6 tháng ông bị đưa đi trại
Hoàng Cát T2 nằm tại Cam Lộ, Quảng Trị. Và ở tại đây 3 năm.
Ở đây có đủ từ tù hình sự, tù chính trị, người
lang thang không nghề nghiệp…Tổng cộng cũng phải vài ngàn người. Nhưng tù chính
trị, tù hình sự ở các khu khác, những người lang thang không nghề nghiệp ở khu
khác. Ông Thuận bị đưa vào chỉ vì lang thang không giấy tờ chứ không có tội gì
nên không bị hỏi cung, tra tấn, nhưng họ bắt làm gióng gánh, chằm nón, đan rổ
đan rá, thúng mủng…và nếu làm không đủ năng suất thì bị đánh. Đánh bằng tay có,
hoặc gặp thứ gì họ phang thứ nấy. Buổi sáng 7g làm cho tới 10:30 ăn cơm, nghỉ
trưa một chút ,1:00 làm tới 4:00 chiều. Cơm nước xong là lùa vô “chuồng”. Tối
thì có họp trại, bắt hát nhạc cách mạng, nói về đường lối chính sách của đảng,
sự khoan hồng của đảng v.v…
Ăn uống thì kham khổ, một chén cơm chỉ có một
muỗng cơm còn bao nhiêu là củ mì, bo bo… Một phòng giam khoảng từ 60-80 người.
Mỗi người một cái chiếu 1m2. Không có toilet. Buổi tối họ cho bỏ vài cái thùng
thiếc trong buồng để đi tiểu tiện, sáng mai khiêng đi đổ. Có một khu riêng để đổ
phân, có người khác khiêng đi phơi khô để làm phân trồng trọt.
Nghĩ lại những ngày đó ông Thuận vẫn cho là
mình may mắn, được ơn trên ban phước lành nên chỉ bị cái chân lâu lành còn bệnh
tật thì không. Đời tù trong môi trường thiếu thốn cực khổ đủ thứ như vậy, ông
Thuận biết có nhiều người đã bị chết vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Sau 3 năm ông Thuận được thả về. Và đó chỉ mới
là lần thứ nhất. Ông Thuận bị đưa vào các trại khác nhau tổng cộng 3 lần. Cứ vừa
ra một vài tháng, nửa năm cho tới một năm là bị bắt lại.
Lần thứ nhất sau khi thả về vì không có gia
đình, không có vợ con, không có nghề nghiệp nên ông lại tiếp tục cuộc sống lang
thang. Ông không ở Huế mà về Đà Nẵng, đi ăn xin từ tỉnh này sang tỉnh khác, lại
bị “hốt”. 3 năm nữa. Thả về lại vô Quy Nhơn, lại bị thêm 3 năm. Tổng công 9
năm.
Lần thứ hai là đỡ nhất, vì người ta đưa ông
vào trại Đồ Bàn của bên Thương binh-Xã hội chứ không phải là trại tù. Giam lỏng,
nhưng cũng vẫn đi cho làm, tự do mua bán, tự do “cải thiện” bữa ăn như đi hái
này hái kia. Ở trại này họ coi ông là người tàn tật nên không phải đi làm, người
nào khỏe thì đi làm, người tàn tật ở nhà làm việc khác, ví dụ như xuống phụ bếp,
hoặc đi phơi khô sắn, khoai… Tiêu chuẩn ăn uống cũng đỡ hơn.
Về trại Kim Sơn, Bình Định cũng khác. Tuy là
trại tù, nhưng đỡ hơn hồi ở Huế. Ông Thuận nghĩ, có lẽ vì thời gian ở Hoàng Cát
T2 quá mới mẻ sau biến cố lịch sử 30/4/1975 nên chính sách của nhà cầm quyền hết
sức nghiêm ngặt, sắt đá, còn Kim Sơn 6 năm sau tình hình đỡ hơn.
Sau 3 đợt bị bắt vào trại ông Thuận rút kinh
nghiệm, tránh cho tới giờ. Kinh nghiêm cho ông thấy nhà nước chỉ lo bắt hốt các
thành phần tàn tật lang thang ở các thành phố lớn, nhất là tới những ngày lễ
như 30/4, 1/9, Tết… Lý do là vì những ngày lễ nhà nước không muốn cho khách
tham quan nhìn thấy những người lang thang, tàn tật, ăn xin… ở mấy thành phố.
Do vậy sau này cứ vào những ngày họ chuẩn bị đi hốt là ông về thôn quê tạm
lánh, hết đợt thì về.
Sau lần thứ ba được thả ra thì ông vào Sài Gòn
rồi ở luôn cho tới bây giờ, cũng gần 30 năm.
Ông đi hát dạo. Một nhóm 3 người, người đàn
người hát người cầm cái lon đi xin tiền, thay đổi nhau. Có lúc là thương phế
binh, có lúc là người tàn tật. Hùn với nhau họ mua cái đàn guitar, lắp một cái
ampli nhỏ bằng bàn tay, cái bình xạc điện...Gọi là tạm sống qua ngày. Họ đi bộ
từ nơi này sang nơi khác, bản thân ông Thuận thì lấy 2 miếng vỏ lốp xe lắp vô 2
cái chân cụt để đi bằng đầu gối, người cụt một chân thì chống nạng… Đi hát, tối
cùng nhau tìm chỗ ngủ ở đầu đình xó chợ.
Sau này khi kiếm được một số vốn ông lấy vé số
đi bán. Ông bắt đầu bán vé số cũng khoảng 10 năm trước.
Khi Hòa thượng Thích Không Tánh ở chùa Liên
Trì, quận 2, bắt đầu tổ chức chương trình tri ân, giúp đỡ thương phế binh VNCH
thì ông Thuận cũng tham gia. Sau này một phần vì làm không nổi, một phần vì bị
chính quyền gây khó dễ quá sức nên Hòa thượng Thích Không Tánh nhờ các Cha bên
Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Kỳ Đồng, quận 3, sau đó là Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở
Cần Giờ, lo giúp. Mỗi năm các Cha tổ chức phát quà cho các thương phế binh VNCH
một lần.
Anh em đồng đội cũ gặp nhau rất vui, tay bắt mặt
mừng, đàn hát, chuyện trò. Nhưng chỉ được vài năm là nhà cầm quyền tìm cách
ngăn cấm, không cho tổ chức nữa.
Bây giờ ông Thuận không đi bán vé số nữa mà
bán đồ chơi trẻ em, bong bóng các thứ. Ông nói: - Bán bong bóng đỡ hơn một cái
là mình không phải trả lại, ế ngày nay qua ngày mai ngày mốt vẫn bán được. Còn
vé số thì chỉ trong ngày. Nhưng bây giờ ế họ cũng không cho trả nên bán vé số
rât mệt mỏi và cũng nguy hiểm, bị giựt. Chú cũng bị tụi nhóc xì ke ma túy giựt
vé số mấy lần, hết cả tiền.
Ông thuê nhà trọ, ở chung với hai người bị
khuyết tật, bị liệt hai chân vì tai biến, cũng đi bán đồ chơi cho trẻ em như
ông.
*******
Câu chuyện của ông Võ Hồng Sơn, lính nhảy dù:
Ông Võ Hồng Sơn sinh năm 1948, tại Quảng
Nam-Đà Nẵng. Trước khi vào lính, ông chỉ học tới khi thi rớt Đệ Thất thì nghỉ
luôn.
Ông đầu quân nhập ngũ vào năm 1971. Năm đó ông
đã 23 tuổi nhưng làm giấy khai sinh xuống 18 tuổi để đăng ký đi lính.
Ông Sơn chọn binh chủng nhảy dù vì thích những
người lính dù mặc bộ đồ dù mũ đỏ oai phong quá.
Ông chính thức đi lính từ cuối năm 1971. Tham
gia nhiều trận đánh ở ngoài Lăng Cô (Huế), trận Quảng Trị mùa hè đỏ lửa và nhiều
nơi khác. Tháng 8.1974 ông Sơn bị thương nặng ở Thượng Đức, Huế. Ông được đưa về
Bệnh Viện Nguyễn Tri phương, Huế cấp cứu, sau đó đưa về Bịnh Viện Đỗ Vinh, ở
SG, rồi Tổng Y Viện Cộng Hòa nằm đó một thời gian. Sau khi bình phục ông được
đưa qua Trung tâm 3 Hòa Lực ở Ngã Năm Gò Vấp để chỉnh hình, phân loại thương phế
binh--1, 2 hay 3. Ông Sơn là loại 3, tình trạng thương tật 85%, vĩnh viễn không
trở lại binh nghiệp được. Ông bị thương cả hai chân, chân trái bị cưa trên mắt
cá một chút, còn chân phải thì nát hết xương đầu gối.
Cũng từ quãng thời gian điều trị ở Trung tâm 3
Hòa Lực này mà dẫn tới việc ông Sơn gặp được người vợ tương lai của mình. Số là
tại đây ông quen biết với ông Phan Văn Nua, lớn hơn ông nhiều tuổi, cũng lính bộ
binh bị thương đứt ruột phải giải phẫu, điều trị. Thấy hoàn cảnh ông Sơn gia
đình ở tuốt ngoài Đà Nẵng mà thời gian này cứ 29 ngày phải đi tái khám một lần
nên ông Nua bảo ông Sơn về ở tạm nhà mình tại Gò Vấp. Gia đình ông Nua có vợ
người Khmer và 5 cô con gái, người vợ tương lai của ông Sơn là người con thứ
hai. Gia đình ông Nua trước đó cứ đi đi về về giữa Campuchia và Việt Nam, đến
năm 1970 thì về Việt Nam ở hẳn, và được chính phủ VNCH khi đó cấp nhà cho ở tại
Trại giao binh ở Gò Vấp.
Đầu năm 1975 ông Sơn lập gia đình, khi đó trên
giấy tờ ông sinh năm 1954 tức 21 tuổi, nhưng tuổi thật là 26, 27 tuổi. Còn vợ
ông, sinh năm 1957, khi đó mới 18 tuổi, còn đang đi học nghề thợ dệt. Đám cưới
đơn giản theo kiểu nhà binh.
***
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi ông
Sơn vẫn còn đang điều trị ở Trung tâm Hòa Lực, cứ 29 ngày tái khám một lần, điều
mà ông lo sợ nhất là mất nước thì đã xảy ra.
Đúng 12g trưa ngày 30/4/1975 Việt Cộng vô tiếp
thu Trung tâm 3 Hòa Lực. Họ bắt những người thương phế binh ra trước sân, ngồi
cúi đầu xuống, hai tay để trên đầu, không được ngó lên, ngồi từ 8g sáng đến 2 g
chiều, sau đó đuổi ra khỏi Trung tâm.
Ông Sơn lúc đó đã gắn chân giả, là binh nhất,
nên cũng bị đi “học tập” 6 tháng tại K4 Tống Lê Chân.
Nhớ lại thời gian này, ông kể, thiếu thốn đủ
thứ, sáng ra nhịn đói đi lao động, người cụt chân như ông thì đi nhổ cỏ, làm việc
nhẹ hơn, mấy người không cụt chân thì khiêng phân đi tưới trồng rau muống, kêu
là đội rau xanh.
Tại đây có đủ loại lính thuộc các binh chủng
khác nhau của VNCH. Không ai dám tâm sự, nói chuyện với ai hết, nói là “cán bộ”
tới bảo bàn kế để trốn, rồi đánh. Nếu chấp hành theo đúng nội quy trong trại
giam thì không bị gì, cứ đến giờ hô làm là làm, hết giờ đi về là về, còn vi phạm
thì sẽ bị đánh. Ông Sơn có nhìn thấy những người bị đánh, cũng có người bị đánh
nặng quá phải đưa đi cấp cứu sau đó không thấy về lại là biết đã “lên đường” rồi.
Nhưng cái khổ về vật chất, thân xác không bằng sự ức chế, bức bối về tâm lý vì
cứ bị những người thắng cuộc xài xể, mắng nhiếc, gọi là “ngụy quân ngụy quyền,
tay sai của Mỹ” – ông Sơn kể.
Trong khi đang đi “học tập cải tạo” ông Sơn sức
khỏe yếu chịu không nổi, lên cơn sốt cao, tưởng như muốn chết, cán bộ trại giam
phải đưa đi cấp cứu ở Bình Dương. Sau thấy ông yếu quá họ đành phải đề nghị lên
trên cho ông về trước. Thế là ông Sơn về trước khi hết hạn 6 tháng.
Gia đình cha mẹ anh chị em ông vẫn còn đủ cả,
đang sống ở Đà Nẵng, nhưng ông Sơn nghĩ, mình đi lính sợ về ảnh hưởng tới gia
đình, lỡ em út đi làm giấy tờ mấy ổng cũng phân biệt anh mày là lính “ngụy” này
kia rồi khó dễ, chẳng hạn. Nên ông ở lại Sài Gòn với gia đình vợ. Bà má vợ lại
tiếp tục nấu xôi đi bán, còn hai vợ chồng ông đi bán vé số.
Có một giai đoạn cả nhà bị lùa đi kinh tế mới ở
Bàu Ké, Dầu Tiếng, Sông Bé, Đồng Xoài, nhưng nhà thì chỉ toàn đàn bà con gái
chân yếu tay mềm, còn hai người đàn ông thì thương phế binh sức khỏe không có,
nên cuối cùng làm không nổi, được 3 tháng cả nhà lại kéo về Sài Gòn. Chỗ ở
không có, cả nhà ra chợ An Đông, ban ngày bán vé số, tối trải chiếu ngủ trước cửa
nhà người ta.
Cũng khoảng 4,5 tháng như vậy thì lại có đợt
“thu gom người lang thang ngoài đường”. Bà má vợ liền năn nỉ xin chính quyền địa
phương cho cả gia đình hồi hương về quê ở An Giang, Châu Đốc. Tại đây chị em họ
hàng bên nhà má vợ ông Sơn mới cho gia đình vợ ông miếng đất cấp cái chòi ở mé
sông An Giang. Má vợ ngày 2 buổi sáng, chiều cắp thúng xôi đi bán. Cả nhà lại
tiếp tục bán vé số. Cuộc sống hết sức gian nan, chật vật. Nhưng hai vợ chồng
cũng có được hai đứa con. Con gái lớn sinh năm 1986. Con trai sinh năm 1993. Cả
hai đều không được học hành gì bao nhiều.
Trong khi đó gia đình ông Sơn ở ngoài Đà Nẵng
đời sống cũng chẳng khá gì hơn.
Trước năm 1975 cha ông là tài xế xe lam, mẹ ở
nhà nội trợ, người cha lái xe lam mà dư sức nuôi cả gia đình 7, 8 đứa con đi học.
Trong nhà sau hai bà chị đầu Hai, Ba, ông anh thứ Tư đến ông là thứ Năm. Cả nhà
chỉ có môt mình ông Sơn đi lính.
Sau ngày 30/4/1975, cả nhà đều ở lại Việt Nam,
cũng có giai đoạn bị đưa đi kinh tế mới, lên đó khổ quá rồi cũng trốn về ở lại
Đà Nẵng. Gia đình cũng ở gần gần nhau, đùm bọc nhau sống.
Khi ba mẹ mất rồi ông Sơn mới hay tin, ông kể
hồi đó không có điện thoại như bây giờ, gửi thư về thì tên, đường, khu phố họ đổi
hết, nên thư từ đi lạc.
Những năm về sau này thỉnh thoảng ông cũng về,
thí dụ như có đám giỗ 3, 4 năm về một lần, còn khi lớn tuổi phần vì kinh tế khó
khăn, phần chỉ có một chân đi cũng khó hơn, nên gia đình những người em ở ngoài
đó cũng thông cảm.
***
Năm 2011 hai vợ chồng ông Sơn và hai con nhỏ
trở về Sài Gòn. Không có nhà, họ sống dưới gầm cầu Ngã ba Hàng Xanh.
Năm 2014 Hòa thượng Thích Không Tánh ở Chùa
Liên trì quận 2, Sài Gòn, bắt đầu tổ chức chương trình tri ân thương phế binh
VNCH, ông Sơn đến chùa 2 lần, năm 2016 chùa Liên Trì bị nhà nước cưỡng chế, đập
phá. Chùa Liên trì vốn là một trong các cơ sở còn sót lại của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất từ trước 1975, Giáo hội không được nhà nước cộng sản thừa
nhận. Bản thân Hòa thượng Thích Không Tánh, trụ trì tại chùa Liên Trì, từng bị
nhà nước cộng sản Việt Nam bắt tù mấy lần, trong đó có lần vào năm 1995 cùng với
Hòa thượng Thích Quảng Độ, một nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng, mỗi người
bị 5 năm tù về tội 'phá hoại chính sách đoàn kết' và 'lợi dụng quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước'. Do vậy ngôi chùa này đã là một “cái gai” trong
mắt nhà cầm quyền.
Cuối cùng đến ngày 8/9/2016 chính quyền quận 2
đã huy động khoảng 500 người các ban ngành, trong đó có an ninh mặc thường phục,
tới thực hiện việc cưỡng chế, đập phá chùa Liên Trì. Bản thân Hòa thượng Thích
Không Tánh sau đó cũng đi “tỵ nạn” ở chùa khác. Nghĩ tới các thương phế binh
VNCH không có ai lo, Hòa thượng Thích Không Tánh liên lạc với các Cha bên Dòng
Chúa Cứu Thế ở Kỳ Đồng, Sài Gòn xin các Cha lo tiếp. Từ đó dòng Chúa Cứu Thế phụ
trách chương trình tri ân thương phế binh VNCH.
Lúc này hai con ông Sơn đã lớn đi làm công
nhân ở nhà máy giày ở Đồng Nai rồi mướn nhà trọ kêu mẹ về ở chung, lo cơm nước
cho hai đứa đi làm. Bản thân ông Sơn thì vô Dòng Chúa Cứu Thế cho các Cha nuôi
luôn. Một thời gian sau nhờ có những người Việt có lòng hảo tâm ở nước ngoài hỗ
trợ, các Cha cất cái nhà ở Vườn Rau Lộc Hưng gọi là “nhà cô đơn” cho những người
thương phế binh không vợ con, không gia đình về ở, cứ 4 người/phòng, 8 căn như
vậy. Ông Sơn về đây ở.
Tưởng đâu những người thương phế binh sẽ có được
những ngày cuối đời bình yên, ấm cúng. Nhưng vào năm 2018, chính quyền địa
phương quận Tân Bình lại cho công an, dân phòng tới giải tỏa khu này, hàng trăm
căn nhà bị đập tan tành.
Cùng với những người dân ở Vườn Rau Lộc Hưng,
những người thương phế binh VNCH mất nơi cư ngụ. Ai có quê hương thì về quê, ai
không có thì ở lại Sài Gòn, ai có tiền thì ra thuê phòng trọ, không tiền thì ra
sống bụi đời ở gầm cầu, chợ…lang thang vất vưởng. Sau này các Cha cũng thuê được
hai phòng ở cư xá Bắc Hải, và Gò Vập cho khoảng 8 ông ở trọ. Còn bản thân ông
Sơn vẫn về chỗ vườn rau Lộc Hưng cũ, do có mấy người đồng hương sống trong những
căn nhà gần đó biết ông, họ cảm thương cho hoàn cảnh của ông nên bây giờ ông
xin tá túc ở trọ.
Khoảng năm 2017, 2018 vợ ông Sơn phát bệnh ung
thư vú. Không có tiền điều trị, bệnh trở nặng, di căn, rồi bà qua đời tháng
12.2020. Gia đình nghèo quá không có tiền lo đám tang, không hoa, không đèn,
không tiền làm di ảnh, không bà con thân thuộc vì ở xa chưa lên kịp, ngay cả
người khiêng hòm cũng không có, tất cả đều trông cậy anh chị em tình nguyện
viên Phòng Công lý và Hòa bình và các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn trợ
giúp. Ông Sơn tâm sự, đối với ông, việc vợ chết không lo được gì là nỗi đau xót
khó quên nhất.
***
Ngẫm lại cuộc đời từ sau 30/4/1975 ông Sơn thấy
toàn là những ngày tháng gian nan, vất vả, nhọc nhằn. Nhà cửa thì không có.
Cũng vì nghèo mà vợ chồng con cái không thể ở gần nhau.
Tệ nhất là thời gian Sài Gòn bị dịch COVID-19.
Những người bán vé số, bán hàng rong, người lao động nghèo hoặc lang thang cơ
nhỡ bị buộc phải ở nhà, không làm gì ra tiền. Ông Sơn cũng vậy. May mà người
Sài Gòn vốn có lòng hảo tâm, nhân ái, đùm bọc chia sẻ lẫn nhau, nên những người
như ông Sơn đã trụ được qua giai đoạn này nhờ những hộp cơm, bịch gạo, muối, mắm…từ
những tấm lòng sẻ chia đó. Nhưng đã có rất nhiều người qua đời trong đó có những
người thương phế binh VNCH vốn đã sức khỏe yếu, thân thể tàn phế, nhiều bệnh tật
nên nếu thiếu ăn hoặc bị nhiễm COVID là không qua khỏi. 28 người ở Vườn Rau Lộc
Hưng hồi đó chết còn có mười mấy người.
Khi được hỏi về đời lính, ông Sơn nhớ lại thời
gian đi lính nhiều kỷ niệm. Dù đi lính là chấp nhận nay sống mai chết. Ông đã từng
chứng kiến bao nhiêu người bạn ngã xuống. Nhưng ông nghĩ, chết sống là hên xui,
là do số mạng chứ mình không tránh được, đạn nó tránh mình không thôi chứ mình
không có tránh đạn được. Vậy mà đời lính đối với ông vẫn rất vui vì đó là ý
nguyện, là mơ ước của ông được đi lính.
Sau ngày 30/4/1975 lúc bị đưa đi “học tập cải
tạo”, ông cảm nhận cuộc đời từ bây giờ trở đi không thể ngước lên được. Những kẻ
thắng cuộc đày, đì, mạt sát ông: mày là thằng lính ngụy, là bọn tay sai bán nước,
ông tủi hận trong lòng nhưng bóp bụng sống, và cũng như ông Thuận, như bao
nhiêu người khác của bên thua cuộc, ông ráng sống với niềm hy vọng, chờ coi thời
thế xoay vần nhưng chờ đến nay là gần 50 năm rồi. Không còn hy vọng gì.
Hồi dòng Chúa Cứu Thế các Cha gọi về, ông gặp
những người bạn lính hồi xưa tay bắt mặt mừng. Những năm 2019, 2020, có đến 6,
7 ngàn người. Gặp nhau nhận không ra vì người nào cũng tật nguyền, tàn phế,
nhưng ngồi kể ra mới biết. An ninh chìm đứng canh. Ai có lời nói cử chỉ gì họ
không vừa lòng sau buổi họp mặt bước ra là họ chụp bắt, rồi họ đem mấy cái loa
mướn mấy thằng giang hồ về nhậu nhẹt ca hát làm lấp đi tiếng hát của những anh
em thương phế binh VNCH. Còn nhớ năm 2019 ông mặc nguyên bộ đồ lính dù đến dự,
khi vừa ra khỏi cổng nhà thờ là bị công an bắt đưa về phường 6, quận 2. Ông kể:
- Chú đội cái mũ đỏ họ lấy luôn. Họ biểu chú lột bộ quần áo ra chú không lột.
Chú nói đây là cái bộ đồ thời trai trẻ của tôi, mấy ông muốn lột thì trừ khi
nào tôi gục ngã trước mặt mấy ông, mấy ông muốn lột thì lột, chứ còn bộ đồ đó
là kỷ niệm đời lính của tôi, tôi phải tôn trọng.
Sau đó nhờ có cha Thành ở Dòng Chúa Cứu Thế, hồi
đó ông Đinh La Thắng còn làm Bí thư thành phố TP.HCM (tên nhà nước cộng sản đặt
cho Sài Gòn sau này). Cha nhờ ông Đinh La Thắng gọi xuống cho công an quận 2.
Công an liền gỡ phù hiệu trên bộ đồ, rồi thả ông Sơn ra.
Bây giờ không có tổ chức họp mặt ca hát được
như hồi đó nữa. Có chương trình gì thì các Cha liên lạc riêng với từng người tới
nhận quà, bây giờ các Cha cũng mỗi người bị đổi đi một nơi, ông thì xuống Vĩnh
Long, ông thì về Cần Giờ, ông thì ra Núi Cúi, Đồng Nai, Biên Hòa…Những người
thương phế binh cũng mỗi người đi một nơi, lớp chết, lớp lang thang vất vưởng.
*******
Câu chuyện của ông Nguyễn Quốc Ấn, Biệt Động Quân:
Ông Nguyễn Quốc Ấn sinh năm 1953, tại Quảng
Nam-Đà Nẵng. Cha mẹ ông có 7 người con, ông là thứ Ba theo cách gọi của người
miền Trung, miền Nam. Trên ông là một người anh trai.
Gia đình ông từ ngoài Đà Nẵng chuyển vào Sài
Gòn sinh sống từ khi ông còn nhỏ, cha mẹ ông mở tiệm dệt vải ở ngã tư Bảy Hiền.
Hồi đó ở khu vực ngã tư Bảy Hiền có rất nhiều cửa hàng dệt vải, toàn là dân miền
Trung làm.
Bản thân ông Ấn chỉ đi học đến hết lớp 3 thì
nghỉ ở nhà phụ giúp cha mẹ trong nghề dệt. Đến năm 1971, khi đủ tuổi quân dịch,
ông đăng ký đi lính vì lý tưởng, vì màu cở sắc áo, và chọn binh chủng Biệt động
quân. Thật ra hồi đó ông cũng thích binh chủng nhảy dù nhưng không đủ tiêu chuẩn.
Điều kiện để trở thành lính nhảy dù và thủy quân lục chiến trước hết chiều cao
phải 1m75 trở lên, mà ông thì chỉ cao chưa tới 1m60.
Ông bắt đầu bước vào đời lính từ cuối năm
1971. Ông thuộc về Quân đoàn 3, Liên đoàn 5, Tiểu đoàn 38 Biệt động quân, tham
gia các trận đánh ở khu vực miền Trung như Cam lộ, Giao Linh…Quân đoàn 3 là dưới
quyền của Tướng Ngô Quang Trưởng. Trận đánh lớn nhất mà ông nhớ nhất là ở Quảng
Trị mùa hè đỏ lửa 1972. Trận chiến quá căng, Quân đoàn 3 được huy động đưa ra
quân đoàn 1 bốn tiểu đoàn trong đó có tiểu đoàn 38 Biệt động quân. Đó là vào
tháng 4 năm 1972. Vừa ra là đụng ngay lực lượng quân chính quy Bắc Việt. Ngày
1/5/1972 quân đội VNCH trong đó có tiểu đoàn 38 Biệt động quân rút khỏi hai đô
thị là Quảng Trị và Đông Hà, lui về phía Mỹ Chánh (giáp với Huế), gọi là “di tản
chiến thuật”. Khi Quân đội Miền Nam rút lui thì cũng có một dòng người dân chạy
theo. Việt Cộng pháo theo, dân chết, lính chết la liệt. Quãng đường dài khoảng
9km trên quốc lộ 1 Quảng Trị đã trở thành “đại lộ kinh hoàng” với hàng chục
ngàn người chết.
Trước đó ở ngoài chiến trường ông Ấn không hề
bị gì, nhưng khi rút lui trên đoạn đường này ông lại bị trúng đạn pháo, mất một
cánh tay. Ông được đưa vào Tổng Y Viện Nguyễn Tri Phương, Huế rồi Tổng Y Viện Cộng
Hòa, Sài Gòn, sau đó qua trung tâm 3 Hòa Lực làm tay giả, chờ phận loại thương
phế binh.
Cuối năm 1973 ông Ấn chỉnh thức giải ngũ, trở
về nhà, tiếp tục công việc dệt may với gia đình để mưu sinh. Còn một tay nên những
loại vải trơn láng, khó dệt như lãnh Mỹ A, satin, ông không làm được, nhưng với
loại vải tám sợi thô thì ông vẫn làm được.
Thời đó đồng tiền có giá, gia đình ông có 7
cái máy dệt, mỗi ngày dệt khoảng trên 100 mét vải các loại, sống thong dong.
Rồi biến cố lịch sử 30/4/1975 đến. Vì chỉ là
binh nhì, thương phế binh cụt một tay nên ông Ấn chỉ phải đi “học tập cải tạo”
có 3 ngày ở trường trung học Nguyễn Thượng Hiền, nhưng cũng như đại đa số đồng
bào miền Nam, cuộc sống của gia đình ông Ấn sau đó trở nên khó khăn, chật vật
hơn rất nhiều. Mấy đợt đổi tiền, mất tiền. Đang đời sống sung túc, hàng hóa
tiêu dùng, lúa gạo, thực phẩm ê hề bỗng nhiên đói nghèo xơ xác, tháng tháng xếp
hàng đi mua từng ký gạo, ký khoai, lít dầu, từng miếng thịt bạc nhạc… trở đi. Bữa
cơm thì chẳng mấy khi được ăn cơm không mà phải độn khoai mì, bột mì, bo bo…Người
miền Nam ngay cả trong những năm tháng chiến tranh cũng chưa hề phải ăn độn, phải
chật vật đến vậy. Túng thiếu nhiều nhà có cái gì cũng đem bán. Ông Ấn nhiều lần
cũng phải đem cả quần áo cũ ra “chợ trời” bán.
Sau ngày 30/4/1975 một thời gian ngắn, toàn bộ
các tiệm dệt vải tư nhân ở ngã tư Bảy Hiền bị dẹp, đưa vào Hợp tác xã, gia đình
nào cũng làm không đủ sống, thậm chí còn lỗ, mọi người không có tinh thần làm,
cộng thêm hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam mẫu mã phong phú hơn, giá rẻ hơn
nên cuối cùng mấy năm sau gia đình ông cũng dẹp, xoay nghề khác. Cả nhà chuyển
sang buôn bán nhỏ, còn ông Ấn đi bán vé số từ đó.
1980 ông Ấn lập gia đình. Câu chuyện tình của
ông đơn giản và cảm động. Nghĩ lại ông vẫn cho đó là duyên nợ. Gia đình vợ ông
là người Bắc 54, di cư vào Nam, đạo Công giáo, vợ ông làm nghề buôn bán ve
chai. (Ông Ấn thì không phải đạo “dòng” mà sau này đi lính gặp các Cha Tuyên úy
đến nói chuyện rồi tin Chúa mà theo đạo từ đó). Nhiều lần hết tiền uống cà phê
ông Ấn lại đem thứ này thứ kia trong nhà ra bán cho cô hàng ve chai hay đi
ngang nhà. Vậy mà thành quen nhau. Lúc lập gia đình nhiều người cũng nói ra nói
vô với vợ ông rằng mi đẹp gái, lấy ai không lấy lại đi lấy ông què cụt. Nhưng vợ
ông trả lời tui thương ổng, vì đồng chung lý tưởng. Ý vợ ông muốn nói cả hai
người cùng lớn lên dưới chế độ VNCH nên hiểu hoàn cảnh của nhau. Bên nhà vợ,
ông anh vợ thì đi lính không quân, sau phải đi “học tập cải tạo” cả chục năm mới
về. Còn bên ông Ấn, người anh đầu đi lính thủy quân lục chiến, quân đoàn 4 ở miền
Tây, chết trận, còn ông Ấn thì biệt động quân, thương phế binh.
Cuộc sống của hai vợ chồng giản dị mà đầm ấm.
Họ có 2 người con trai, sinh năm 1984 và 1991. Người con trai đầu lớn lên đến
tuổi phải đi nghĩa vụ quân sự, nhưng không được bao lâu thì phát bệnh tâm thần
nhẹ nện được cho về với lý do “Tâm thần, không đủ sức khỏe phục vụ Quân đội
Nhân dân”. Người con trai thứ hai khi đến tuổi cũng bị gọi đi nhưng ông Ấn lên
tận phường, quận phản đối với lý do nhà chỉ 2 người con trai, người con đầu đã
đi nghĩa vụ quân sự và bị bệnh tâm thần không thể lao động, bây giờ người con
trai thứ hai là lao động chính trong nhà.
Cả nhà gồm 2 vợ chồng ông Ấn, người con trai đầu,
vợ chồng người con thứ hai đều ở chung. Người con đầu tuy bị bệnh tâm thần
nhưng không hề phá phách gây hấn làm mất lòng gì ai, chỉ nhớ nhớ quên quên, hay
ngồi nói chuyện một mình. Người con thứ hai chạy xe ôm chở hàng, cưới cô vợ là
nhân viên bán hàng ở siêu thị quận 3, còn ông Ấn thì vẫn ngày ngày đi bán vé số.
Khi chương trình tri ân thương phế binh VNCH
được tổ chức ở Nhà thờ Dòng chúa Cứu Thế Kỳ Đồng rồi Gò Vấp, ông Ấn có đến nhận
quà rồi quen biết ông Thuận, ông Sơn, ông Mẫn và những người khác. Riêng với
ông Sơn, hai ông còn quen nhau vì cùng đi bán vé số.
Trong năm 2022 người con trai lớn của ông Ấn
qua đời vì đột quỵ, cao áp, tiểu đường. Đến tháng Hai năm 2023 người vợ ông
cũng qua đời vì bệnh tật. Thật ra bà bị bệnh đã nhiều năm, đủ thứ bệnh trong
người. Hai cái tang gần nhau, nhiều lúc ông Ấn thấy buồn quá sức. Nhưng nhìn những
người thương phế binh khác ông lại tự an ủi dù sao mình cũng còn may mắn, còn
có gia đình riêng, bây giờ vẫn còn lại vợ chồng người con trai, vợ nó lại mới
sinh con nên ông lại có cháu.
***
Dù mỗi người mỗi hoàn cảnh nhưng tâm trạng,
quan điểm của cả ba người đều có những điểm chung. Đó là cả ba người đều tự
nguyện vào lính vì thích đời lính, vì màu cờ sắc áo, vì bổn phận người công dân
trong một đất nước có chiến tranh. Và chính vì vậy, không một người nào mảy may
hối tiếc đã đi lính để rồi trở thành tàn phế. Cũng chẳng ai trong số họ cảm thấy
mặc cảm vì là người lính của bên thua cuộc, trái lại, khi có dịp là ông Sơn lại
khoác lên người bộ đồ lính dù kỷ niệm, còn ông Ấn thì thường xuyên mặc cái áo
lính đi bán vé số. Công an có xách nhiễu thì ông trả lời: - Bây giờ mấy ông
chơi với Mỹ rồi còn phận biệt gì nữa. Tui là “tay sai của Mỹ” vậy mà tui còn ở
Việt Nam đây, chứ mấy ông đánh Mỹ chi mà nhiều ông đưa con cái qua Mỹ ở, mua
nhà bên Mỹ…
Khi được hỏi giai đoạn nào trong đời nhớ lại cảm
thấy vui nhất, hạnh phúc nhất, cả ba ông đều nói đó là những ngày đi lính. Với
ông Thuận, đó là những ngày anh em đồng đội bốn phương một nhà, còn ông Sơn là
những khi thắng trận, được về dưỡng quân, được nghỉ ngơi đi chơi Sài Gòn lu bù.
Thời gian đầm ấm khác với ông Sơn còn là những
ngày khi các Cha Dòng Chúa Cứu Thế cất nhà cho ở, mọi người có nơi ở ổn định,
ăn uống không lo, đi bán vé số được hay không được về cũng có các Sơ nấu cơm
cho ăn, đau ốm có các Cha cho bác sĩ vô khám, cho thuốc, lại có bạn bè cùng cảnh
ngộ sống gần nhau, buổi tối đọc kinh xong, ngồi ăn bánh uống trà, nói chuyện
tâm sự với những người thương phế binh khác, rồi đi ngủ, xong một ngày bình
yên. Ăn ngủ có giờ giấc, tinh thần nhẹ nhàng nên người thương phế binh nào sức
khỏe cũng khá ra. Chung quanh thì toàn là người Bắc 54 đạo Công giáo cũng hoàn
cảnh nghèo nhưng rất có lòng, mùa nào rau đó họ đem tới cho những người thương
phế binh ăn, không lấy tiền. Vui vẻ, đầm ấm, y như người nhà. Được như vậy 4
năm, từ 2014-2018 thì khu vườn rau Lộc Hưng bị cưỡng chế.
Còn ông Thuận, ông Ấn thì ngoài thời gian đi
lính thì giai đoạn có chương trình tri ân thương phế binh VNCH, anh em gặp mặt
nhau trò chuyện là vui.
Những niềm vui nhỏ bé đó, những ngày tháng êm ấm
đó cũng bị nhà cầm quyền tước đoạt đi. Chế độ độc tài cộng sản Việt Nam đối xử
với dân quân cán chính cho tới các thương phế binh của bên thua cuộc hết sức hà
khắc, tàn tệ, hoàn toàn không có chút tình người là vậy. Ngay cả bây giờ những
người thương phế binh cũng không dám tụ tập, gặp gỡ nhau quá thường xuyên vì
công an, dân phòng vẫn còn theo dõi, để ý, mặc dù họ chỉ là những con người tàn
phế, gần đất xa trời, làm hại gì được cho chế độ này?
Như đã nói, dù bị tàn phế, những người lính
VNCH như các ông không hề bao giờ có ý nghĩ nuối tiếc, ân hận cho bản thân, nhưng
nuối tiếc cho đất nước. Ông Sơn nhận xét: - Trước 4/1975 cuộc sống người dân
thoải mái, tự do, đồng tiển thoải mái, một người đi làm có thể nuôi nhiều người,
hồi đó làm gì có người đi bán vé số dạo, ai muốn mua vé số thì tới đại lý mua.
Nhìn chung miền Nam VNCH từng phát triển hơn nhiều nước trong khu vực còn bây
giờ thì Việt Nam bị tụt hậu thua xa các nước láng giềng, xã hội thì sa sút
trong đạo đức, tình người.
Nói đến tính chất nhân bản ngày xưa của xã hội
miền Nam, ông Sơn: - Hồi xưa rất nhiều khi mình bắt được Việt Cộng mình đâu có
giết, đâu có đánh đập gì đâu. Hồi xưa mình có học, tiên học lễ hậu học văn, ra
đường gặp người già, đám ma ai nấy đều đứng nghiêm, ngã mũ chào, kính trọng,
còn bây giờ đạo đức sa sút, con người làm sao biết được lẽ phải, đi ra đường
không tin tưởng được ai, bán mấy cái vé số còn bị giựt, bị đổi số giả…
Ông Ấn thì ngậm ngùi nói: - Không có nỗi đau
nào bằng nỗi đau mất nước. Mất nước là mất tất cả, hồi đó ông Thiệu đã nói vậy
rồi…
Bây giờ các ông đều bảo cũng không muốn quan
tâm tới thời cuộc, chính trị nữa vì tuổi đã cao, quan tâm rồi đầu óc buồn, suy
kiệt thêm. Cả ba ông Thuận, ông Sơn, ông Ấn đều là người có đạo Công giáo, nên
các ông đều đặt niềm tin vào Chúa, phó thác mọi việc vào tay Chúa, bây giờ chỉ
sống với những niềm vui nhỏ bé như đi bán đồ chơi cho trẻ em hay bán vé số mỗi
ngày kiếm đủ hai bữa cơm, thỉnh thoảng những người bạn thương phế binh, đồng đội
cũ gặp nhau làm ly bia trò chuyện…Vậy thôi.
Câu chuyện của ông Thuận, ông Sơn, ông Ấn chỉ
là 3 mảnh đời trong số hàng chục ngàn thương phế binh VNCH sau ngày 30/4/1975,
hầu hết cuộc sống của những người thương phế binh này đều rất khó khăn, chật vật
mưu sinh, cay đắng đủ điều. May mà còn có những hoạt động thiện nguyện thầm lặng
của những vị sư, các Cha, của những người có lòng hảo tâm khiến những người
thương phế binh thiếu may mắn cũng cảm thấy an ủi ít nhiều.
No comments:
Post a Comment