Phan Nhật Nam -
Saigon Nhỏ
6 tháng 10, 2023
https://saigonnhonews.com/thoi-su/viet-nam/giet-cho-du-chi-tieu/
Lời người viết:
Cuối năm 1993, đến Mỹ, người viết được biết: Vào một buổi sau 1975, Đỗ
Quý Toàn đã viết nên lời thơ quyết liệt trên khi đọc (lại) Mùa Hè Đỏ Lửa tại Mỹ.
Người viết thật lòng có nỗi bồi hồi xúc động vì thấy chữ, nghĩa (do bản thân)
viết nên trong thời trẻ tuổi, giữa máu lửa, súng đạn có khả năng hiện thực một
phần “Nỗi Đau/Sự Chết” nơi Miền Nam trong chiến tranh (1960-1975).
Nhưng nay, nơi xa quê cũ nửa vòng Trái đất, vào buổi cuối đời, cuối cuộc
thấy ra: Tất cả đã là vô ích – Vì chữ nghĩa, những sách (đã) viết nên của
bản thân cuối cùng đã thấy ra ”không thấm vào đâu” so với câu chuyện của
mỗi người/một việc (im lặng, bình thường) mà Phan Thúy Hà đã kể ra theo cách ngắn
gọn, giản dị. Dẫu thuộc thế hệ người Việt sinh sau 1975 ở trong nước, nhưng “Phan
Thúy Hà” đã nêu lên (đủ) “Sách Lược” của tập đoàn cầm quyền gọi là “đảng cộng
sản/không thể viết hoa” (mà hiện nay, vào Thế Kỷ 21, năm 2023) chẳng có một
chút liên hệ nào với nội dung, lời văn của văn kiện gọi là “Tuyên Ngôn Đảng Cộng
Sản/The Communist Manifesto do Friedrich Engels và Karl Marx viết tại Luân Đôn,
1888 – Đấy là “Sách Lược Giết” cho đủ chỉ tiêu!
Một.
Năm 2020, Thúy Hà, họ Phan là một người nữ thuộc thế hệ thứ ba sau 1975
(sinh 1979 tại Hương Khê, Hà Tĩnh, nay sống tại Hà Nội, thủ đô CHXHCNVN) tuy “không
phải là nhà văn” (tuyên bố ngày 8 Tháng Sáu 2023 tại Collège de France, Paris)
nhưng do đã nghe ra, nên đã viết xuống những “cảnh (thật) chết”:
“Vào năm giảm tô, ông nội bị bắt giam. Ông bị treo lên, đầu dọng xuống
đất. Sao lại dọng đầu ông xuống đất, sau này tôi hỏi mẹ. Mẹ bảo, để cho ông có
nuốt vàng vào trong bụng thì nhả ra. Họ dọng đầu ông như thế từ sáng đến trưa,
từ trưa đến tối. Cho đến lúc không tra khảo gì nữa thì tống vào tù… Ông nội bị
treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh. Bác Võ Tá Cảnh, con trai cả của ông bà, chết
trong trại giam. Có người nói bác tự vẫn (…)
Anh chết, em phải thế mạng. Cha tôi, Võ
Tá Tân, phải đền tội thay Võ Tá Cảnh. Cha về làng để nhận án tử hình thay thế
bác Cảnh (…). Trên quả đồi trọc, những bó đuốc giơ lên. “Cho mi nói một lời cuối
cùng với bà con nông dân”. Cha nói: “Con thưa bà con nông dân, con là một thằng
phản dân, phản đảng, phản nước, con xin ông bà nông dân tha tội bắn cho con…”
Ba phát súng. Ở nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gục xuống.” Đoạn kể của Võ Tá Tạo
(Phan Thúy Hà. Gia Đình. NXB/PNVN, Hà Nội, 2020; trang 49-53).
Với cảnh “thật chết/chết thật” như trên, Phan Thúy Hà có thắc mắc chân
thành: “Cải cách ruộng đất” – gọi chung vậy – Phải chăng là câu chuyện của (cả)
loài người? Đó không chỉ là câu chuyện của riêng Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam
(cộng sản). Phần lớn người Việt Nam không nhận thức được hết Nỗi Đau. Cái này đến
từ rất nhiều nguyên nhân. Họ (có thể-Pnn) đồng nghĩa “Nỗi Đau với Sự Không
May”. Điều này xảy ra trong suy nghĩ của cả những vị học cao. Khi chưa được nói
cho hết nhẽ thì câu chuyện chưa thể gọi là đã qua, dù xảy ra cách bảy mươi hay
một trăm năm”.
Thoạt tiên bản thân cũng muốn “tin” như cô Phan để tạm an lòng, nhưng
khi phải đọc thêm câu chuyện. Hãy nghe kể tiếp…
“Ba tên phản động hàng đầu của xã Bùi Xá là Trần Yến, Nguyễn Oánh, Đặng
Yên. Đấy là ba tên cộng sản của thời điểm 1930-1931 (hàng cán bộ cộng sản cốt
cán của Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, 1930-1931-Pnn), bị Pháp đưa vào nhà lao bảy
năm, trong Ban Mê Thuột. Nhưng (sau khi được thực dân Pháp “tàn ác”trả tự
do-Pnn) trở về địa phương Nghệ An theo quan điểm cách mạng thì:
“Chúng chui vào đảng để phá hoại cách mạng (?!). Bắn. Tên đầu sỏ số 1:
Trần Yến. Là cha của nhân vật Trần Văn Dung. Chết sau 10 ngày bị tra tấn, bỏ
đói, chưa kịp bắn. Lấp rồi, mẹ con mới được báo. Khi cất mộ, thấy dây thừng ở cổ.
Dây thừng lôi xác từ xóm Trúc ra bờ sông sau đình Làng Khê.
Tên đầu sỏ số 2: Nguyễn Oánh. Bắn 5 phát mới chết. Cổ bị lìa một nửa.
Bà Chắt Hinh (vợ) phải dùng chạc mụi (dây thừng) tròng nốt nửa phần cổ lôi đi
chôn. Đi được hai chục mét, bà Chắt Hinh ngất. Người ta dội nước vào mặt, bà tỉnh
lại, lôi thêm hai chục mét, lại khuỵ xuống. Người ta lại dội nước vào mặt bà.
Lôi đến cái hố đào sẵn bên hố xí. Thằng con mới bốn tuổi kêu khóc, mẹ ơi đừng
chôn cậu, con sợ. Hai mẹ con bị đuổi ra mé làng. Bắt cua ăn sống, vì không có nồi
nấu. Thằng bé qua được chết đói nhờ những con cóc, con nhái.
Tên đầu sỏ số 3: Đặng Yên. Để kết tội chết, một vụ án giết người được dựng
ra: Đặng Yên giết một phụ nữ miền Nam tập kết đang đi trên đê. Những thợ đấu đứng
lên mô tả cảnh giết (giả tạo-Pnn) rùng rợn đến nỗi sau này đi qua địa điểm giết
người (tưởng tượng) đó bác Trần Văn Dung vẫn rờn rợn. Bắn xong, ông Đặng Yên gục
xuống, không thấy máu phun ra, bởi khi đó thân người ông đã như que củi – Xong.
Tuy nhiên (sau nầy – Pnn) Đảng ra tuyên bố: “Ba ông bị (giết) oan”.
Được (đảng-Pnn) công nhận là “cán bộ tiền khởi nghĩa”, được hưởng
tiền chế độ. Ông Nguyễn Oánh được (công nhận-Pnn) là liệt sỹ, cho nên thằng bé
con ông (ăn cóc nhái mà sống) năm xưa nay (trở nên) là “con liệt sỹ”, được
sang Ba Lan học!
Xã Bùi Xá còn có chị gái của ông Lê Văn Thiêm: Bà Cửu Hối. Bà không phải
đảng viên nên không bị đưa vào diện bắn, chỉ đưa vào trại giam. Xã Bùi Xá là
quê nhà của hoạ sĩ, điêu khắc gia nỗi danh Phùng Thị Điềm (sau nầy là nghệ sĩ
thiên tả/chống VNCH tại Pháp trong thập niên 1960). Cha của bà là Cụ Án Cần bị
giam chết đói tại nhà.
Con trai cụ là chiến sĩ Phùng Duy Phiên, cán bộ trung đoàn đầu tiên khi
kháng chiến bắt đầu. Bùi Xá là xã khá giả của huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh bấy giờ –
về tất cả các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục. Thầy giáo Phong, thầy giáo Cơ chết
đói và chết trong trại giam. Thầy giáo Trị bị đuổi dạy. Anh Cửu Thiêm cháu nhà
quan tự tử. Bà Đoàn Phương tự tử. Anh Viên bị giam chết đói. Đó là chuyện xảy
(CHỈ) ra ở một xã – xã có truyền thống cách mạng!
Hai.
Như vậy là thế nào? Chỉ trong một xã, Xã Bùi Xá, Đức Thọ, Hà Tĩnh nơi
có những người lương thiện, công chính, có học vấn, có “công lớn với cách mạng”
(cán bộ lãnh đạo tiên khởi của Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, 1930-1931), mà người
con trai của nạn nhân (bị kết án oan) là cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn Phùng
Duy Phiên khi kháng chiến mới bắt đầu (19/12/1946)!
Vậy phải có một nguyên nhân từ một cá nhân/nhóm cá nhân cụ thể/rất cụ
thể để khởi động “kế hoạch giết người/với (chính) người của ta”. Chúng ta hãy
tìm từ đầu cội nguồn…
“Hoàng Tùng (Biên tập/Tổng biên tập Nhân Dân (1951-1982); Ủy viên
BCH/TUĐ (1976-82)-pnn) đã viết trong hồi ký:
“… Mùa hè năm 1952, Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt
phải cải cách ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa Bác mới quyết định
phải thực hiện… Họ (Stalin, Mao) muốn qua cải cách ruộng đất để “chỉnh đốn” lại
Đảng ta. (Trích đăng từ hồi ký Hoàng Tùng “Vài chuyện về Bác Hồ với Trung Quốc
–Pnn). “Trung Quốc đã rắp tâm đưa đảng cộng sản Việt Nam vào quỹ đạo của Trung
quốc như bóng với hình” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Người Việt Books, US, 2014. Trang
95).
Đến đây chúng ta có thể kết luận không sợ sai lầm: Chính Hồ Chí Minh chứ
không ai khác là tác nhân “xây dựng/lãnh đạo/điều hành” toàn diện các kế hoạch
của đảng cộng sản Việt Nam từ ngày thành hình (3 Tháng Hai 1930) qua các giai
đoạn cao trào cũng như thoái trào của tổ chức chính trị bạo lực nầy.
Tiến trình nầy hiện thực cụ thể trong “Chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất”
khởi động từ 1953 đến năm 1956 như trên đã đề cập với những nhân sự điển hình:
“Phá đảng lừng danh quân Đặng Thí. Giết người khét tiếng gã Chu Biên” (Đèn Cù,
trang 111).
Những tên sát nhân thành danh nầy không hề bị trừng phạt, trái lại được
tưởng thưởng do công lao “xây dựng chế độ” với thành tích: “Chu Văn Biên, bí
thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh, bắt ghế ngồi trên thềm cao chỉ tay
vào mặt mẹ đẻ chấp tay đứng dưới sân gằn giọng.. “Tao với mi không mẹ, không
con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi”.
Chu Biên được đề bạt thứ trưởng nông nghiệp do “nhiệt tình cách mạng”.
(Đèn Cù, trang 111) và Đặng Thí được đề cử vào BCH/TUĐ khóa 1967-1982 cùng với
Hoàng Tùng, đồng nghiệp, đồng chí thân thiết của “nhà văn” Trần Đĩnh trong ban
biên tập báo Nhân Dân từ 1951.
Thế nên, tôi có ý nghĩ: “Phải chăng do không muốn dính dấp với loại
“nhà văn/nhà thơ” của Hà Nội (Trần Đĩnh, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu…) nên
tác giả Phan Thúy Hà đã từ chối danh tính “nhà văn” trong lần phát biểu tại
College de France trong ngày 8 Tháng Sáu 2023?! Hy vọng tôi ước đoán không sai.
Tóm lại, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn,
Lê Khả Phiêu… Tất cả tập đoàn bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam nơi Hà Nội, ở
Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) là (đích) thủ phạm hàng đầu của (nhiều) lần tàn
sát tập thể Người Dân Việt Nam một cách có hệ thống kể từ ngày đảng cộng sản
thành lập (3 Tháng Hai 1930) dẫu tay họ không hề dính máu của ai. Nhưng “Tội Ác
Đảng Cộng Sản” không ngừng lại tại Ngày 30 Tháng Tư, 1975 với 600,000 người Việt
chết trên đường vượt biên, vượt biển bởi kế hoạch “công an tổ chức vượt
biên-công an bán bãi vượt biên-công an tàn sát vượt biên”. Tội ác đúng sách
lược, có chỉ tiêu hôm nay (Thế Kỷ 21) vẫn đang tiếp tục.
Ba.
Vụ án Nguyễn Hữu Giộc/Mười Vân, nguyên Giám Đốc Công An Đồng Nai (Biên
Hòa, Phước Tuy trước 1975) bị tử hình gây chấn động dư luận sau 1975. Năm 1948,
Mười Vân/Giộc gia nhập vào công an xã Long Định, Chợ Lớn. Thời kỳ 1948-1949,
Huyện Cần Đước nơi chính quyền quốc gia chưa kiểm soát được, Mười Giộc đã làm
mưa làm gió giết hại rất nhiều người trong đó có lãnh đạo huyện đội trưởng Việt
Minh/cộng sản với vu cáo (giả tạo) ghép vào tội theo “Đại Việt Quốc Dân Đảng” –
Lý do thông dụng dùng để (giải thích/hợp lý hóa) chủ trương giết người của cộng
sản Việt Minh trong những năm trước, sau 1945, 1946.
Năm 1954, Giộc tập kết ra Bắc, được cử làm Phó Phòng cảnh sát Trị An/Ty
Công An Hòa Bình. Năm 1962, Giộc trở về miền Nam “chống Mỹ cứu nước”. Sau năm
1975, Giộc được cử làm giám đốc công an Tỉnh Đồng Nai (mới). Điển hình Giộc đã
hạ ngục tra tấn, bức cung rất dã man hơn cả cầm thú bằng cách bỏ đói “đồng chí”
tên Ba Lan, bắt ăn phân người trộn với bo bo – học từ cách của Mao đối với Thống
Chế Hồng Quân Trung Quốc Bành Đức Hoài trong Cách Mạng Văn Hóa, 1965!
Sau 1975, trong thời gian hai năm 1978-1979, Giộc câu kết với Kim Anh
(chủ nhà hàng Cyrnos, Vũng Tàu trước 1975), tổ chức hệ thống tàu vượt biên, bán
bãi, chung chi đầy đủ (bằng vàng) tại các bãi Hồ Cốc, Bình Châu, Lộc An, thuộc
Quận Xuyên Mộc, Phước Tuy (trước 1975). Theo ước tính không chính thức, Giộc
thu cả nửa tấn vàng, giao cho Kim Anh chờ ngày đoàn tụ ở Mỹ. Thu được khối vàng
lớn, nhưng Giộc nộp ra Hà Nội không bao nhiêu.
Thế nên, đã đến lúc phải hạ thủ Giộc. Năm 1983, Bộ trưởng Bộ Công An Phạm
Hùng đích thân ký lệnh bắt giam. Phiên tòa sơ chung thẩm xét xử Mười Vân/Giộc tại
hội trường lớn Tỉnh Đồng Nai là một phiên tòa lịch sử của ngành tòa án cộng sản
do Phó Tòa Phúc Thẩm tối cao Phạm Như Phấn chủ tọa.
Sau ba ngày xét xử, tòa tuyên án tử hình Giộc. Theo báo chí của nhà nước
cộng sản thì kết quả phiên tòa là “niềm vui khôn tả của hàng ngàn người dân”,
đặc biệt là những người từng phải chết oan, tù tội và nhục hình do Mười Vân/Giộc
gây ra. Nói như thế là nói (láo) lấy có, bởi trong khoảng thời gian dài 35 năm
từ 1948 đến 1983, Giộc/Mười Vân đã giết rất nhiều người (cán bộ cộng sản, đảng
phái quốc gia, và dân thường) với cớ “cách mạng”.
Thế nhưng, tại sao phải đến 1983, Phó Thủ Tướng/Bộ Trưởng Công An Phạm
Hùng mới “lên kế hoạch” bắt Giộc (phải) chết? Chúng ta có thể nói chắc: “Giộc/Mười
Vân đã giết đủ chỉ tiêu, và dấu chấm hết chính là mạng sống và khối vàng
khổng lồ mà y ta đã chiếm được từ cái chết của ngàn người (Việt và Hoa của Miền
Nam) vượt biên sau 30 Tháng Tư 1975.
Chẳng có người dân nào “vui khôn tả” án tử hình của Giộc, bởi họ đã là
những người đã chết, máu thấm đủ, thịt da, xương cốt rơi rớt trên đoạn đường dẫn
đến những bãi vượt biên Hồ Cốc, Bình Châu, Lộc An… xuyên rừng Xuyên Mộc (Phước
Tuy) mà dân chúng vùng Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Vũng Tàu gọi là “đường
Mười Giộc”.
Tội danh khi tuyên án tử cho Mười Vân/Giộc là: “Cố ý làm trái nguyên tắc,
chính sách, chế độ, thể lệ kinh tế gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản XHCN”.
Không phải thế, mà phải nói: “Mười Giộc đã thực hiện “rất đúng” nguyên tắc/chính
sách/chế độ/chỉ tiêu” để đảng ta với đám cán bộ trung ương nơi Bộ Chính Trị,
Bộ Công An ở Hà Nội được “vui khôn tả”, vì chỉ mở một “trận tòa án” thu được
1,979 lượng vàng theo báo cáo chính thức. Thực tế đến nửa tấn (8,000 lượng) và
có thể nhiều hơn thế nữa mà cộng sản Hà Nội dần thâu lại được sau nầy.
Thảm kịch vượt biển/vượt biên không chấm dứt sau án tử hình Mười Giộc với
thây xác của người chết thảm bao gồm trẻ nhỏ vị thành niên do “quy định”
của “đảng, nhà nước ta” giành cho bọn “bán nước/phản bội tổ quốc”: Muốn
nhận xác người vượt biển đem về chôn, nhà nước đề ra “tử thi phí”: Xác người lớn/1,000
đồng tiền HCM! Xác trẻ nhỏ/600! Với “tử thi phí”, nhà nước chxhcnvn (không đủ sức
viết nguyên chữ hoa) vượt quá khả năng tàn độc của tất cả thứ, loại nhà nước ác
độc, man rợ nhất đã có trên hành tinh quả đất nầy. Chúng ta tiếp theo dõi “biện
pháp phát triển/nâng cao chất lượng kinh tế xhcn” của đảng, nhà nước Hà Nội.
Bốn.
Cuối Thế Kỷ 20, bắt đầu thập niên 1990, phong trào vượt biên/vượt biển
dần chấm dứt, các trại tỵ nạn vùng Đông-Nam Á đóng cửa. Đảng ta không còn “mối
(sinh) lợi chiến lược” từ kế hoạch “tổ chức/bán bãi/tàn sát” với đối tượng “thuyền
nhân” – Thế nên Đảng “sáng tạo” kế hoạch “xuất khẩu lao động/khởi động kinh
tế vĩ mô” với “đối tượng/sản phẩm” có giá trị chất lượng, giá trị (kinh tế) cao
mà không phải tốn công xây dựng, đào tạo – “Thùng nhân” được thành hình
và đưa vào hoạt động, đẩy mạnh kinh tế “xã hội chủ nghĩa” lên một tầm vóc mới
trên quy toàn cầu!
Nhưng trước khi đề cập “Thùng nhân” với kế hoạch Xuất Khẩu Lao Động/XKLĐ,
chúng tôi đề cập một “khâu” tài chánh chiến lược KHÁC mà đảng, nhà nước Hà Nội
đã quá “hên” mà thâu đạt được – Đấy là nguồn tài chánh đến từ các nước tư bản
có hệ thống “kinh tế/tài chánh rẫy chết” với chính sách “người bóc lột người”
qua thành phần đối tượng mà đa số nếu không nói hầu hết là “Công Dân VNCH/Tỵ nạn
cộng sản” rời khỏi nước sau 30 Tháng Tư 1975.
Đối tượng đau thương, tan tác nầy sau đợt vượt biên suốt thập niên 1980
nếu sống sót qua thảm trạng “vượt biên-mua bãi vượt biên-sát hại (người) vượt
biên”do công an cộng sản tổ chức và thực hiện như phần trên đã trình bày với
thành phần sát nhân (điển hình) tên Mười Vân/Giộc. Và (nếu) sống sót,
thoát nạn hải tặc Thái, Mã dậy mờ biển Đông, họ đến được một đất nước ”không phải
là cộng sản”, chủ yếu Mỹ, Úc, Gia Nã Đại…
Và tại những xứ sở mới nầy, lượng người bất hạnh (đông đảo) thực hiện
ngay động tác cấp thiết hàng đầu: “Nỗ lực làm việc để nuôi sống lượng người
thân còn kẹt lại Việt Nam, thành phần nam giới đang trong hệ thống trại cải tạo
dày đặc từ Nam ra Bắc”. Vô tình một cách hợp lý, đám người đọa đày sau năm 1975
với danh tính (bị) lăng nhục “bọn người bỏ nước, phản bội tổ quốc” chính thức
biến thái thành “khúc ruột ngàn dặm” mà “Đảng và Nhà nước ta” luôn luôn coi cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng
dân tộc Việt Nam – Điều 2 của Nghị Quyết 36 (2004)”.
Số lượng kiều hối của cộng đồng kể trên tăng theo lũy tiến phần lớn
chuyển về gia đình cư ngụ vùng Sài Gòn. Điển hình qua Thế Kỷ 21 vẫn đạt hơn
US$6.6 tỷ/2022, tương đương 33% thu ngân sách của thành phố, và chiếm trên 50%
so với cả nước. Sài Gòn vẫn luôn là Sài Gòn, thành phố giàu nhất nước.
Vào Thế Kỷ 21, nhu cầu sinh tử “Kiều Hối” luôn là ưu tiên chiến lược hàng đầu để
Việt Nam cộng sản (được) ở trong nhóm ba quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương, và thuộc toán 10 quốc gia nhận kiều hối nhiều nhất
thế giới.
Thế nên kế hoạch XKLĐ để lượng kiều hối “nuôi dưỡng chế độ/làm giàu đất
nước “tư bản đỏ hóa” (phải) được duy trì, phát triển. Trong tình hình “khẩn
trương” nầy, đường giây “XKLĐ CHUI” được thành hình như một “đột phá chiến lược
xã hội chủ nghĩa” và “Thùng Nhân” là “kết quả tất yếu” của, từ Tính Đảng/Đảng Cộng
Sản!
Năm.
Kiều Hối đã là MỘT trong những nguồn vốn quan trọng từ nước ngoài/quyết
định cho sự sống còn của nền “kinh tế – xã hội của CHXHCNVN” khi các “quả đấm
(thép) kinh tế” điển hình như VINASHIN/Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam;
HUD/Tập đoàn đầu tư và phát triển Nhà và Đô Thị Việt Nam; VNIV/Tập đoàn Công
Nghiệp và Xây Dựng Việt Nam… lần lượt phá sản!
Nền kinh tế XHCN tan nát như thế, nhưng cán bộ đảng từ địa phương đến
trung ương tiếp tục xây “biệt phủ” và mỗi tỉnh, thậm chí mỗi huyện đều có “tượng
đài”?! Kiểu như bức tường gốm sứ (dài 1,950 thước) tiêu mất 1,000 tỷ đồng/500
triệu đôla Mỹ cho công trình “hoành tráng” 1,000 năm Thăng Long/Đúng “quốc
khánh, 1 Tháng Mười 2010” của Tàu. Đến Tháng Sáu 2020 bức tường bị đập bể!
Vì lẽ sống chết nầy, Đảng, Nhà nước cộng sản Hà Nội đã không ngừng phát
triển kế hoạch (lớn) thâu đạt kiều hối, đặc biệt chuyển người lao động Việt Nam
đi làm việc chính thức (và chui) tại các nước phát triển trên thế giới, chủ yếu
là Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan… Châu Âu với Anh Quốc là mục tiêu lớn nhắm tới.
Bi thảm kịch điển hình mở ra theo như câu chuyện sau… Lê Văn Hà, 30 tuổi
người huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, một vùng quê nghèo chuyên nông nghiệp. Hà
ra đi từ Tháng Bảy 2019 với đích đến là nước Anh. Chuyến đi phải mất 20 ngàn bảng
Anh (tức khoảng 25 ngàn đôla Mỹ) trả cho “đường dây đưa người ra nước ngoài”.
Đây là một khoản tiền quá lớn mà gia đình phải cầm thế (với ngân hàng
nhà nước) hai lô đất mới vay được với hy vọng tới đất Anh, Hà sẽ tìm được việc
làm để trả nợ. Nhưng trước ngày 24 Tháng Mười 2019, khi báo chí Anh và
quốc tế đưa tin có 39 người nhập cảnh lậu vào Anh Quốc bằng container đã bị
chết tại khu công nghiệp Waterglade, thị trấn Grays (Quận Essex, Anh Quốc),
thì ông Lê Minh Tuấn, cha của Hà nhận được một tin nhắn (cuối cùng) của con
trên Facebook ngay trước thời điểm mà anh Hà nói rằng đang chuẩn bị vào Anh.
Thế nên, ông Tuấn tin rằng người con nằm trong số 39 nạn nhân chết
trong lòng xe oan nghiệt ở Essex. Lê Văn Hà không chết một mình, anh chết vì ngạt
thở với nhiều nạn nhân cùng Huyện Yên Thành, Tỉnh Nghệ An (vùng đất cách mạng
kiên cường với thành phần nạn nhân bị giết oan từ mà phần trên Phan Thúy Hà đã
kể ra). Trong số người chết có cô gái 19 tuổi Bùi Thị Nhung, người thiếu nữ
thông minh, sáng đẹp nhất trong số bốn anh chị em. Bùi Thị Nhung là hy vọng tốt
nhất cả toàn cho gia tộc.
Lê Văn Hà, Bùi Thị Nhung… những công dân CHXHCNVN sinh trưởng sau 1975,
hoàn toàn không dính dấp đến chiến tranh chống Thực Dân Pháp (1946-1954); chống
Ngụy Quân-Ngụy Quyền-Đế Quốc Mỹ xâm lược (1960-1975), đã chết cùng với nhiều
người khác, tổng cộng 39 người; lớn nhất 44 tuổi, nhỏ nhất là một cậu bé vị
thành niên, 15 tuổi. Tất cả đều Chết Ngạt trong lòng container để cố vào
đất Anh tìm việc làm kiếm tiền trả nợ ở quê nhà.
Chết sau lời trăn trối cuối cùng (được ghi lại trong cell phone) của
anh Nguyễn Thọ Tuân, 25 tuổi gởi về cho vợ con tại giây phút cuối ngày 23 Tháng
Mười 2019… “Anh Tuân đây. Anh xin lỗi. Anh không chăm sóc được cho mẹ con em.
Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Khó thở quá rồi…”
39 người chết tại ngày 23 Tháng Mười 2019 không vô tình, ngẫu nhiên có
mặt cùng nhau trong thùng xe tử thần. Công việc đưa họ ra nước ngoài là một
phần hoạt động của thế giới ngầm thuộc của một mạng lưới toàn cầu/Nơi khởi hành
là Hà Nội. Họ rời Việt Nam từ sân bay Nội Bài với giấy tờ XKLĐ “hợp lệ/hợp
pháp”, qua ngả Trung Cộng, dần tới các nước cộng sản thuộc khối Đông Âu cũ (trước
1990).
Nhưng khi đến English Channel (eo biển Manche), cho dù mức phí đã nộp
là bao nhiêu chăng nữa, thì con đường duy nhất vào đất Anh vẫn là phải trốn vào
container. SỰ CHẾT BẮT ĐẦU. Thành phần thuộc đường giây buôn người bắt đầu từ
Hà Nội kia đã thu một khoản tiền rất lớn từ 10 ngàn bảng đến hơn 30 ngàn bảng
Anh, tỷ lệ chia chác giữa kẻ tổ chức ở Hà Nội và tài xế lái xe container nơi cửa
khẩu Essex là Bao Nhiêu và gồm có những AI chúng ta không thể biết?!
Chỉ biết sau thảm kịch ở Essex, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ra lệnh
điều tra về các vụ việc đưa công dân Việt Nam “xuất cảnh chưa hợp pháp”/theo
cách nói của báo chí nhà nước, xử lý nghiêm các vi phạm! Bất chấp lệnh của
Thủ tướng Phúc (năm 2019), hay đe dọa trừng trị của Tướng Công An Tô Lâm (hiện
thời), khoản tiền khổng lồ kiếm được từ việc buôn người đã trở thành một “ngành
kinh doanh “hợp pháp gọi là XKLĐ” béo bở và đang tiếp tục phát triển mạnh ở Việt
Nam.
Tháng Mười 2019 kia đến nay, Tháng Mười 2023 đúng bốn năm, nạn buôn người/trốn
thoát bất hợp pháp ra khỏi Việt Nam có giảm không? Tháng Ba vừa qua của năm
2023 báo chí Đài Loan đưa tin 14 người Việt gồm 9 nam và 5 nữ, vượt biên giới
đường bộ bất hợp pháp sang Trung Quốc, sau đó di chuyển đến khu vực duyên hải của
Tỉnh Phúc Kiến, tìm cách vượt biển vào Đài Loan nhưng thuyền đã bị lật chìm giữa
biển khiến tất cả thiệt mạng!
48 năm sau 30 Tháng Tư 1975, người Việt Nam vẫn tiếp tục vượt biên.
Nhưng phần lớn thuộc Miền Bắc vĩ tuyến 17 – Công dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
trước 1945, hoặc CHXHCNVN sau 1975.
Cali, Tháng 10/2023
Sau 30 năm rời khỏi nước (1993-2023)
No comments:
Post a Comment