Mỹ hứa hẹn đầu tư
công nghệ, liệu Việt Nam có đủ năng lực tiếp nhận?
RFA
Tổng
thống Joe Biden đến Việt Nam mang theo hàng loạt dự án từ các tập đoàn khổng lồ
của Mỹ. Thực tế đó được cho sẽ mang lại cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn nữa cho
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, giới chuyên gia kinh tế đánh giá Việt Nam cần
phải thay đổi rất nhiều nữa mới có thể tận dụng tối đa nguồn lực mà Mỹ cam kết
hỗ trợ.
Tổng
thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Thưởng trong buổi quốc yến
trưa ngày 11/9. (Reuters)
Cam kết
của Mỹ
Trong
chuyến thăm chính thức đến Hà Nội vào hai ngày 10 và 11/9 vừa qua, theo Reuters, Nhà Trắng công bố
một số thỏa thuận thương mại của hai bên, bao gồm Vietnam Airlines được hỗ trợ
mua 50 máy bay Boeing 737 Max có trị giá khoảng 7,8 tỷ USD.
Kế
hoạch của Microsoft (MSFT.O) nhằm tạo ra một “giải pháp sáng tạo dựa trên công
nghệ AI phù hợp với Việt Nam và các thị trường mới nổi”.
Nvidia
(NVDA.O) cũng sẽ hợp tác với các tập đoàn của Việt Nam như FPT, Viettel và
VinGroup… trong lĩnh vực AI.
Nhà
Trắng nhấn mạnh số lượng về nguồn đầu tư của các công ty Mỹ tại Việt Nam liên
quan đến chip, bao gồm cả kế hoạch của Marvell và Synopsys (SNPS.O) để xây dựng
các trung tâm thiết kế chip tại Việt Nam.
Một
nhà máy mới của Amkor trị giá 1,6 tỷ USD ở gần Hà Nội chuyên lắp ráp, đóng gói
và thử nghiệm chip sẽ bắt đầu hoạt động vào tháng 10. Intel sẽ đầu tư một nhà
máy lắp ráp chip trị giá 1,5 tỷ USD ở miền Nam Việt Nam.
Tập
đoàn Honeywell (HON.O) của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với một đối tác Việt Nam để triển
khai dự án thí điểm phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng pin đầu tiên của
Việt Nam.
Tiến
sỹ Lê Hồng Hiệp, hiện đang làm việc tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á tại
Singapore, cho rằng đây thực sự là cơ hội lớn để Việt Nam có thể phát triển
vượt bậc, đạt được mục tiêu trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Do đó,
Chính phủ Việt Nam sẽ nỗ lực để tạp điều kiện cho các dự án này được đi vào
thực tiễn:
“Mình
tin rằng là họ (Chính phủ VN - PV) sẽ tạo điều kiện hết sức cho các dự án, các
cái sáng kiến như vậy chứ không có trở ngại về mặt pháp lý hay về bản thủ tục
hành chính hiện nay vẫn thường thấy đối với một số dự án bình thường khác.
Tại
vì đây là một cái lĩnh vực ưu tiên cao. Ngoài việc phục vụ các lợi ích của Việt
Nam thì nó cũng là nằm trong cái thỏa thuận hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ, cho
nên chắc chắn sẽ được ưu tiên, sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc triển
khai.
Khó
khăn chủ yếu là đến từ các cái nguồn lực cũng như là các biện pháp triển khai
của các bên đối tác cụ thể, chứ không phải là từ nhà nước.”
Tiến
sỹ kinh tế Nguyễn Trí Hiếu cho biết hồi năm 2006, ông từng tham gia các hội
nghị về kinh tế khi Tổng thống Bush đến Việt Nam dự APEC. Lúc đó cũng đã có
nhiều Biên bản ghi nhớ (MOU) giữa các doanh nghiệp lớn hai nước Việt - Mỹ,
nhưng kết quả thực hiện lại không được bao nhiêu:
“Trước
nhất là trong những hội nghị như thế thì thường Tổng thống Mỹ mang theo một
phái đoàn rất là rầm rộ với các doanh nghiệp lớn của Mỹ và để kết thúc hội nghị
một cách tốt đẹp thì thường là họ đưa ra những cái MOU để ký kết với nhau và
được báo chí tung hô lên như là một thời điểm của một giai đoạn mới. Lần này
cũng vậy, rất nhiều những hợp đồng ký kết với nhau…
Tất
cả những cái đó dĩ nhiên là cần phải có. Thế nhưng từ cái lần trước cho thấy
rằng những cái MOU đó nó không đi vào thực hiện được là bởi vì ngồi trên bàn
hội nghị thì có thể dễ dàng ký kết với nhau, nhưng mà khi thực hiện các dự án
lớn lao hàng tỷ đô thì cần phải có một sự nghiên cứu về tính khả thi của các dự
án đó, môi trường pháp lý, môi trường tài chính như thế nào…”
Rào cản
Các
dự án hợp tác cụ thể đã có, nhưng làm thế nào để hiện thực hoá những dự án này
không phải là điều dễ dàng cho Việt Nam.
Theo
ông Nguyễn Trí Hiếu, dù môi trường kinh doanh của Việt Nam bây giờ đã cải thiện
rất nhiều so với những năm 2006; tuy nhiên, các nhà đầu tư Hoa Kỳ vẫn e ngại về
những rào cản như pháp lý, quy định về đất đai, trình độ lao động và cả tình
hình chính trị không ổn định ở cả khu vực Đông Nam Á hiện nay.
Trở
ngại lớn nhất của nhà đầu tư Mỹ khi vào Việt Nam, theo ông Hiếu, là những luật
lệ của Việt Nam, đặc biệt là liên quan đến bất động sản. Đất đai là cơ sở nền
tảng để xây dựng xí nghiệp cũng như các hãng xưởng sản xuất; do đó, các doanh
nghiệp Mỹ cũng ái ngại khi luật về đất đai ở Việt Nam còn chồng chéo, nhiều thủ
tục rắc rối:
“Không
chỉ là về vấn đề đất đai mà tất cả những quy định về luật pháp liên quan đến
đầu tư thương mại ở Việt Nam nó còn rất chồng chéo với nhau và cần phải có một
sự cải tiến để có thể làm cho các nhà đầu tư yên tâm về tài sản của họ được ổn
định.”
Về
nguồn nhân lực, tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu đánh giá dù trình độ người lao động của
Việt Nam đã tăng cao trong 20 năm qua nhưng vẫn chưa đủ, đặc biệt là lao động
trong các ngành liên quan đến công nghệ, AI, bán dẫn…
Trong
một bài viết được đăng trên Reuters hôm 31/8, ông Vũ Tú Thành - người đứng đầu
văn phòng Việt Nam của Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN - cho biết “con số các kỹ
sư phần cứng có sẵn ở Việt Nam hiện thấp hơn số lượng cần thiết cho việc đầu tư
vào ngành công nghiệp hàng tỷ đô la này”.
Cũng
theo ông Thành, Việt Nam hiện có khoảng từ 5.000 đến 6.000 kỹ sư được đào tạo
cho ngành chip bán dẫn, trong khi nhu cầu cần có là 20.000 kỹ sư trong năm năm
tới và 50.000 kỹ sư trong một thập niên tới.
Liên
quan đến vấn đề môi trường, ông Hiếu đánh giá tình trạng ô nhiễm không khí,
nước và đất vẫn còn nặng, đặc biệt ở những khu vực có nhièu khu công nghiệp,
nơi đặt các nhà máy, hãng xưởng nước ngoài:
“Sang
đến vấn đề môi trường thì chưa có sự quan tâm đủ từ chính quyền, mặc dù Việt
Nam đã có chương trình đến năm 2050 thì sẽ đạt “zero carbon”. Trên giấy tờ thì
rất tốt về các chính sách và kế hoạch nhưng mà việc thực hiện thì còn rất thô
sơ để có thể tiến đến một môi trường không có khí thải.”
Giải pháp
Việt
Nam cần phải giải quyết các rào cản kể trên thì mới có thể tận dụng tốt nhất
các cơ hội và nguồn lực mà Mỹ sẽ hỗ trợ cho Việt Nam. Tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu
nêu một số giải pháp sau. Trước tiên là vấn đề luật pháp:
“Đây
là một quá trình sửa đổi cải tiến rất lâu dài, không thể nào trong một thời
gian ngắn có thể thay đổi được. Chính phủ và Quốc hội Việt Nam cần phải là rà
soát tất cả những luật lệ, đặc biệt là những luật lệ sẽ có tác động đến nhà đầu
tư nước ngoài
Các
dự án nước ngoài thì cần phải có sự xem xét chỉn chu để có thể đáp ứng những
yêu cầu mới, đặc biệt là trong các hàng hóa mà bán sang Mỹ cũng cần phải được
rà soát lại về vấn đề vệ sinh và tất cả những quy định ở trong các hiệp định
thương mại.”
Việt
Nam cũng phải tăng cường đào tạo, tạo nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công
nghệ để có đủ khả năng đón đầu những dự án đầu tư lớn từ những các “ông lớn”
của Mỹ về chất bán dẫn, AI hoặc kỹ thuật số…
Ngoài
ra, vấn đề tham nhũng cũng cần phải được quản lý tốt hơn:
“Bên
cạnh đó, một trong những vấn đề gây trở ngại cho quan hệ làm ăn với nước ngoài
là tham nhũng. Dù hiện tượng tham nhũng cũng đã giảm nhiều, những chiến dịch
chống tham nhũng của Đảng và nhà nước đã có tác động lớn nhưng tham nhũng vẫn
còn và đó cũng làm nhụt chí các nhà đầu tư nước ngoài rất nhiều. Đó là những
cái cần phải thay đổi.”
------------
Tin,
bài liên quan
THỜI
SỰ
Kết quả chuyến thăm Hà Nội của TT Biden:
P2 - Cơ hội & thách thức
Kết quả chuyến thăm Hà Nội của TT Biden:
P1 - Chú trọng kinh tế hơn an ninh quốc phòng?
Một bước đi quyết định ‘vào quỹ đạo Mỹ’ của
Việt Nam
Quan hệ Việt - Mỹ qua chuyện kể của cố vấn
Bùi Kiến Thành: Phần 2 - Hợp tác
Quan hệ Việt - Mỹ qua chuyện kể của cố vấn
Bùi Kiến Thành: Phần 1 - Hoà giải
No comments:
Post a Comment