Vì
sao Ukraine chiến đấu đến cùng, còn miền Nam Việt Nam thối lui?
Vann
Phan/Người Việt
June 18, 2022
SANTA ANA, California (NV) – Đã bốn tháng trôi qua kể từ ngày 24 Tháng Hai khi quân đội và
nhân dân Ukraine, dưới quyền của ông Volodymyr Zelensky, tổng thống, nhất tề đứng
dậy cầm súng chiến đấu chống các lực lượng xâm lược Nga dưới quyền ông Vladimir
Putin, tổng thống, từ mặt trận Kiev lúc ban đầu cho tới mặt trận Donbas hiện
nay.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/06/CCB-Ukraine-danh-den-cung-1-1068x712.jpg
Các binh sĩ Việt
Nam Cộng Hòa trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào vào Tháng Ba, 1971.
(Hình minh họa: Paul Leandri/AFP via Getty Images)
Cuộc quyết đấu giữa gã khổng lồ Nga, một cường
quốc quân sự có võ khí nguyên tử, và anh chàng tí hon Ukraine, chỉ được trang bị
bằng các vũ khí lỗi thời từ thế kỷ trước, tỏ ra rất ngang ngửa, ít ra cũng
trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, bởi vì chẳng những Ukraine đã chận đứng được
phần lớn những cuộc tấn công mãnh liệt của quân Nga vào các đô thị và tỉnh thành
trên đất nước mình mà còn có thể giáng trả cho đội quân xâm lược những đòn chí
tử, gây ra nhiều tổn thất đáng kể về nhân mạng và vũ khí cho Nga.
Cuộc kháng chiến thần thánh của Ukraine bây giờ
khiến cho những người am hiểu thời cuộc không thể nào không đưa ra câu hỏi vì
sao Ukraine quyết tâm chiến đấu đến cùng trong khi miền Nam Việt Nam lại thối
lui trước quân địch hồi năm 1975 trong thế kỷ trước.
Nói
một cách tổng quát, chính hoàn cảnh lịch sử khác nhau và dân tộc tính khác nhau
giữa Ukraine và miền Nam Việt Nam đã tạo nên sự khác biệt gần như trái ngược hẳn
nhau đó giữa cuộc chiến tại Ukraine và cuộc chiến tại Việt Nam.
Tình hình Ukraine
trước và sau cuộc xâm lược võ trang của Nga
Nước Cộng Hòa Ukraine chỉ chính thức bước vào
cuộc chiến tranh với Nga mới có bốn tháng nay, mặc dù hồi năm 2014 họ đã phải
đương đầu với một cuộc chiến tranh chớp nhoáng với Nga khi cường quốc này đánh
chiếm bán đảo Crimea của họ.
Trước khi Liên Bang Nga khởi sự tiến quân vào
xâm lược nước Ukraine, vào ngày 24 Tháng Hai, Ukraine đang là một quốc gia tự
do, dân chủ khá ổn định tại Đông Âu dưới quyền của Tổng Thống Zelensky và đang
phục hồi khỏi những mất mát lớn lao sau khi bị Nga cướp lấy bán đảo Crimea, hồi
năm 2014, cũng như khỏi nạn tham nhũng lan tràn trong hai chính quyền của các tổng
thống Viktor Yanukovych (2010-2014) và Petro Poroshenko (2014-2019) trước đó.
Sau khi Crimea bị sáp nhập một cách bất hợp
pháp vào Liên Bang Nga mà quốc tế chẳng làm gì được con gấu Nga thì chính phủ
và nhân dân Ukraine, một mặt thì lo chuẩn bị tinh thần và thao luyện quân đội,
mặt khác thì khẩn thiết nộp đơn xin gia nhập Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây
Dương, tức Khối NATO, để được che chở. Tiếc thay, vì các nước Âu Châu bị Nga
hăm dọa dữ dằn quá cho nên chuyện Ukraine vào NATO đã bị gác lại mãi cho tới
khi Nga đưa quân tiến đánh Ukraine từ hồi đầu năm đến nay.
Tình hình miền Nam
Việt Nam hồi năm 1975
Khác hẳn với nước Cộng Hòa Ukraine, nước Việt
Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam phải đương đầu với cuộc chiến tranh chống
quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược gần hai thập niên từ năm 1960 cho đến năm 1975.
Trong khi cuộc chiến tranh Nga-Ukraine còn mới
mẻ quá và quân đội Ukraine vẫn chưa đến nỗi thấm mệt, cuộc chiến tranh kéo dài
suốt hai thập niên kể từ ngày lập quốc cho đến khi bị thất thủ vào tay các lực
lượng Cộng Sản, không nhiều thì ít, cũng đã làm cho quân và dân miền Nam Việt
Nam đâm ra mệt mỏi vì chiến tranh.
Đã thế, cuộc kháng chiến chống Nga của Ukraine
được rất nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần,
trong đó Hoa Kỳ và Khối NATO là nỗ lực chính. Ngược lại, cuộc chiến tranh chống
Cộng của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa hồi thế kỷ trước không được cái may mắn
đó.
Không phải vì miền Nam Việt Nam thiếu chính
nghĩa, mà vì toàn thể thế giới lúc đó ít có ai hiểu rõ được cái tàn bạo và phi
nhân bản của chủ nghĩa Cộng Sản, cộng với lòng ganh ghét kỳ lạ của chính các nước
trong Thế Giới Tự Do trước sự giàu mạnh và ảnh hưởng lan rộng của Hoa Kỳ, người
đỡ đầu chính cho Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, ngay cả một số quốc gia tự do, dân
chủ trên thế giới, nhất là nước Pháp dưới thời Tổng Thống Charles de Gaulle
cũng như các tổng thống George Pompidou và Valéry Giscard d’Estaing kế vị ông,
cũng ra sức ủng hộ Cộng Sản Bắc Việt. Vì sao? Ít ra cũng là để xóa bỏ chính quyền
thân Mỹ mà lập nên một chính quyền thân Pháp tại Sài Gòn dưới chiêu bài trung lập
hóa miền Nam Việt Nam để có thể chấm dứt một cuộc chiến tranh không biết bao giờ
mới kết thúc với phe Cộng Sản.
Cuộc tổng tấn công của các lực lượng Cộng Sản
vào thủ đô Sài Gòn hồi mùa Xuân năm 1975 diễn ra sau khi Hoa Kỳ quyết định bỏ
rơi hoàn toàn đồng minh Nam Việt Nam và sau khi nhiều nước trên thế giới, nhân
danh chính nghĩa hòa bình, nồng nhiệt cổ võ cho Cộng Sản Bắc Việt đánh chiếm miền
Nam Việt Nam, vì họ vững tin rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam thế nào cũng tốt đẹp
hơn chế độ tự do, dân chủ thân Mỹ tại Sài Gòn.
Từ Tháng Giêng, 1975, cho đến ngày 30 Tháng
Tư, 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên vi phạm các điều khỏan trong Hiệp
Định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Việt Nam để lần
lượt tấn công Phước Long, Ban Mê Thuột cùng nhiều tỉnh lỵ và thành phố khác tại
Vùng II Chiến Thuật và Vùng I Chiến Thuật của Việt Nam Cộng Hòa. Khác hẳn với
truyền thống địch xâm lấn tới đâu thì quân ta chống trả và đẩy lùi họ tới đó
trong suốt hai thập niên chiến tranh, các đại đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
có mặt tại bốn quân khu, chủ yếu là các sư đoàn Bộ Binh cùng với các lực lượng
tổng trừ bị và trừ bị cấp quân đoàn, đều hầu như chưa kịp chống trả gì – ngoại
trừ trận Long Khánh – thì đã được lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH từ trung
ương bắt phải rút quân về lãnh thổ Vùng III Chiến Thuật để “lập phòng tuyến mới.”
Các tài liệu
đã được giải mã sau này cho thấy chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại
Sài Gòn, hết sức bối rối sau khi biết rõ Washington đã quyết định bỏ rơi miền
Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản bằng cách cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho
Việt Nam Cộng Hòa, đã thực hiện sách lược tái phối trí các đơn vị quân đội và co cụm lại để
phòng thủ lãnh thổ một cách ít tốn kém nhất, chủ yếu là tại Vùng III và Vùng IV
Chiến Thuật, vừa gấp rút mà cũng vừa thiếu tổ chức.
Sách lược này đã dẫn đến sự sụp đổ từng mảng lớn,
mà cao điểm là việc Sài Gòn thất thủ vào tay Cộng Quân ngày 30 Tháng Tư, 1975,
của một quân đội dũng mãnh và đông đến cả triệu chiến binh dưới cờ, một đội
quân từng đánh thắng các đơn vị chủ lực của Cộng Sản từ trận Tết Mậu Thân
(1968) qua các cuộc Hành Quân Toàn Thắng 42 và 43 tại Cambodia (1970) và Mùa Hè
Đỏ Lửa (1972) trên khắp bốn vùng chiến thuật, khiến cả thế giới không khỏi ngạc
nhiên.
Hoàn cảnh và tình
thế khác nhau giữa Ukraine và miền Nam Việt Nam
Rõ ràng là đã có sự tương phản rõ rệt dẫn tới
kết quả khác biệt nhau trong các cuộc chiến tại Ukraine năm 2022 và tại miền
Nam Việt Nam năm 1975. Chính hoàn cảnh và tình thế khác nhau giữa Ukraine và miền
Nam Việt Nam đã dẫn đến cuộc diện chiến tranh khác nhau tại hai phương trời
cách biệt đó.
- Quân và dân Ukraine bị dồn vào thế phải chiến
đấu tới cùng nếu không muốn đất nước họ bị Liên Bang Nga thôn tính vĩnh viễn
trong khi quân và dân Việt Nam Cộng Hòa, trước cuộc tổng tấn công sau cùng của
Cộng Sản Bắc Việt, vẫn không nghĩ rằng đất nước mình sẽ bị xóa sổ trên bản đồ
thế giới. Bởi vì từ các chính trị gia cho tới dân chúng, ai ai cũng cứ mơ hồ về
các giải pháp chính trị, trong đó có việc thành lập một chính phủ hòa hợp và
hòa giải tại Sài Gòn để miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại với quy chế trung lập
do quốc tế định đặt.
- Dân chúng Ukraine hiểu rõ chủ nghĩa Cộng Sản
là độc tài và phi nhân bản vì đã từng sống dưới ách Cộng Sản suốt tám thập niên
nên không còn muốn bị nước Nga, với một nền dân chủ giả hiệu và một đường lối
cai trị chẳng khác gì Cộng Sản dưới quyền nhà độc tài Putin. Trong khi đó, phần
lớn dân chúng miền Nam Việt Nam hồi thế kỷ trước vẫn chưa hiểu rõ chủ nghĩa Cộng
Sản là tồi tệ và vẫn còn tơ tưởng về một ngày mai “không đến nỗi nào” dưới chế
độ Cộng Sản.
- Ukraine bây giờ có giặc ngoài, là Nga, nhưng
không có thù trong, là phe phản chiến trong nước, như Việt Nam Cộng Hòa hồi các
thập niên 1960 và 1970. Một số không ít các chính trị gia và dân chúng miền Nam
Việt Nam cứ việc nghe theo lời dụ dỗ của Cộng Sản mà hùa nhau tìm cách lật đổ
các chính quyền hợp hiến và hợp pháp tại miền Nam Việt Nam, hay ít ra thì cũng
tuyên truyền bóp méo sự thật nhằm làm mất uy tín của chính quyền tại Sài Gòn
trước con mắt của quốc tế, dẫn đến sự sa sút tinh thần chiến đấu cùng với xu hướng
thỏa hiệp với Cộng Sản trong nước.
- Người dân Ukraine hiền hòa và ít tham vọng
hơn người dân Việt Nam ở chỗ họ chỉ muốn có một chính quyền của người Ukraine,
biết lo cho quyền lợi của dân tộc và không để cho Ukraine phải lệ thuộc Nga như
trong quá khứ đau buồn lúc họ phải nằm dưới quyền cai trị của chủ nghĩa Đại Nga
gần cả thế kỷ.
Người dân Việt Nam thời hậu bán thế kỷ 20, lạ
thay, lại hay mang tâm trạng “đứng núi này, trông núi nọ,” dẫn đến các cuộc
cách mạng và đảo chánh lật đổ chính phủ liên tiếp trong nội bộ miền Nam chống Cộng,
để rồi sau cùng hầu như lại “rước” Cộng Sản vào cai trị đất nước mình, chỉ vì họ
cứ tưởng bở là người Cộng Sản trong sạch hơn, không biết tham nhũng là gì, tuy
chỉ phải cái tội độc tài và tàn ác mà thôi.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/06/CCB-Ukraine-danh-den-cung-2-1068x712.jpg
Một cậu bé Ukraine
ngồi trước một tòa nhà bị bom đạn Nga tàn phá tại thị trấn Kramatorsk ở vùng
Donbas, ngày 25 Tháng Năm, 2022. (Hình minh họa: Aris Messinis/AFP via Getty
Images)
Thay lời kết
Việt Nam Cộng Hòa đã bị Cộng Sản nuốt chửng và
Ukraine đang bị gã khổng lồ Nga đánh cho tan hoang và nhừ tử cũng chỉ vì các “đồng
minh” của cả hai nước tính toán quá kỹ và quá “nhát đòn.” Lịch sử cho thấy các
nước Âu Châu tuy có nhiều máu thực dân trong huyết quản và cứ ưa xâm chiếm các
nước nhỏ, yếu để làm thuộc địa nhưng lại run sợ trước các thế lực hùng mạnh
hơn, chẳng hạn như Nga và Cộng Sản bây giờ. Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến trong thế kỷ
trước, Âu Châu chỉ có biệt tài là nương tựa vào siêu cường Hoa Kỳ trong vấn đề
phòng thủ chống ngoại xâm và cứ ỷ lại vào sự che chở của các lực lượng Hoa Kỳ
trong Khối NATO.
Nhưng chính Hoa Kỳ cũng rụt rè quá mức khi phải
đối đầu với các thế lực hùng mạnh như Nga và Cộng Sản Trung Hoa, đặc biệt là
khi lãnh thổ Hoa Kỳ chưa bị trực tiếp tấn công. Thời gian cho thấy Tướng
Douglas MacArthur đã đúng khi chủ trương Hoa Kỳ phải tấn công thẳng vào Hoa Lục
để giải phóng toàn bộ bán đảo Triều Tiên hồi thập niên 1950. Và Tướng William
Westmoreland cũng đúng luôn khi chủ trương phải đánh thẳng vào các cứ địa của Cộng
Quân tại Bắc Việt để tiêu diệt khả năng tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược vào
miền Nam của họ.Đánh thẳng chứ không phải đánh “cà giựt” trong khuôn khổ chiến
thuật “đáp lễ tương xứng” (“flexible response”) mà Tòa Bạch Ốc đã ra lệnh cho
các lực lượng Mỹ tại Việt Nam phải tuân thủ, vì cứ sợ Cộng Sản Trung Hoa sẽ nhảy
vào cuộc chiến Việt Nam để bênh đỡ cho Cộng Sản Bắc Việt.
Cuộc kháng chiến chống Nga hiện nay của
Ukraine ngó vậy chứ không chắc sẽ mang lại chiến thắng sau cùng cho dân tộc anh
dũng này, bởi vì quân Nga đã chiếm được vùng Donbas rộng lớn ở phía Đông
Ukraine để chuẩn bị sáp nhập vùng này vào Liên Bang Nga y như Crimea trước kia.
Một phần vì Hoa Kỳ và các nước Âu Châu quá
“nhát đòn” trước những lời đe dọa sẽ “làm liều” của cáo già Putin, và phần khác
là vì cái nguy cơ phát sinh ra hội chứng “mệt mỏi tình thương” (“compassion
fatigue”) của các nước Tây phương khi Nga cố tình kéo dài cuộc chiến tại
Ukraine, khiến Tây phương phải ra tay giúp đỡ Ukraine mãi.
Tình trạng này thì cũng tương tự như nỗi khó
khăn mà quốc tế đã trải qua trong các đợt cứu vớt và định cư thuyền nhân Việt
Nam vượt biển trong hai thập niên 1970 và 1980, sau khi miền Nam Việt Nam bị Cộng
Sản thôn tính, khiến thế giới đành phải bỏ cuộc nửa chừng. (Vann Phan) [qd]
No comments:
Post a Comment