BỘ
TỨ VÀ CHIẾN LƯỢC ẤN –THÁI BÌNH DƯƠNG CỦA MỸ : CƠ HỘI CHO VIỆT NAM
Trần Quốc Hùng
03/06/2022
12:41
https://www.diendan.org/bo-tu-va-chien-luoc-an-tbd-cua-my-co-hoi-cho-vn
Tháng Năm
2022 đã đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng trong việc triển khai chiến lược Ấn Độ-Thái
Bình Dương (Ấn-TBD) của chính quyền Biden; cụ thể là hai hội nghị thượng đỉnh
US-ASEAN ở Washington và Bộ Tứ (Quad) ở Tokyo, và công bố bắt đầu đàm phán về
Khuôn Khổ Kinh Tế Ấn-TBD (Indo-Pacific Economic Framework IPEF). Các sự kiện
này làm sáng tỏ chiến lược Ấn-TBD của Mỹ bằng các chính sách và dự án cụ thể.
Nói chung, các dự án này đã tạo cơ hội cho VN để tăng cường mối quan hệ với các
nước trong khu vực Ấn-TBD—nếu có thể khéo léo thương lượng và tham gia các hoạt
động thích hợp có lợi ích thiết thực
Quan trọng
hơn cả là tuyên bố chung của hội nghị thượng đỉnh Bộ Tứ, khẳng định mục tiêu là
cộng tác với các nước cùng quan điểm để bảo đảm hoà bình, ồn định và thịnh vượng
trong khu vực Ấn-TBD và trên thế giới trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và
Hiến Chương LHQ. Cụ thể là bảo đảm khu vực Ấn-TBD tự do và mở cửa, tôn trọng
quyền tự do giao thông trên mặt biển và không phận biển Đông và Nam TQ, tôn trọng
các luật lệ quốc tế về biển và hàng hải, nhất là UNCLOS, chống các hành động đơn
phương dùng vũ lực lực nhằm thay đổi nguyên trạng trong khu vực hay đe doạ gây
sức ép đối với các nước khác. Tuy không nêu đích danh nước nào, nhưng các mục
tiêu này nhằm chống lại các hành động lấn chiếm đảo biển của TQ trong thời gian
qua. Tuy nhiên, đó là các nguyên tắc chung mà VN cũng như nhiều nước khác trong
khu vực có thể đồng tình—phù hợp với các tuyên bố của ASEAN và của các nước có
tranh chấp biển đảo với TQ. Với thực chất như thế, VN có thể tập trung cộng tác
trong một số hoạt động cụ thể do Bộ Tứ đề xướng, mà không cần đặt vấn đề nên
tham gia Bộ Tứ dưới một hình thức nào đó như chính sách hiện nay của Tông Thống
Hàn Quốc Yoon Seok-youl.
Các lãnh vực cụ thể của IPEF
VN là một
trong 13 nước (và một trong 7 nước ASEAN) được Mỹ mời tham gia đàm phán về
Khuôn Khổ Kinh Tế Ấn-TBD (IPEF): Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, Tân Tây Lan, VN, Indonesia, Thái Lan, Mã
Lai, Phi Luật Tân, Singapore và Brunei —dự kiến sẽ kết thúc và công bố
trong Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC ở Mỹ tháng 11/2023. IPEF là một cấu trúc kinh tế
nhằm xây dựng luật chơi cho nền kinh tế thế kỷ 21 nhất là kinh tế số hoá, các
chuỗi cung ứng an ninh và có khả năng chịu sốc cao, huy động vốn đầu tư vào cơ
sở hạ tầng năng lượng sạch, và nâng cấp các tiêu chuẩn về lao động, môi trường,
tính minh bạch, công bằng trong thuế khoá và chống tham nhũng.
IPEF không
phải là một hiệp ước thương mại tự do nên có lẽ sẽ không cần Quốc Hội Mỹ thông
qua; nhưng vì thế một số nước nghi ngại không biết nó sẽ tồn tại bao lâu nếu
chính quyền Mỹ rơi vào tay đảng Cộng Hoà trong các cuộc bầu cử sắp tới. Hơn nữa,
vì không phải là hiệp ước thương mại tự do nên Mỹ không có các nhượng bộ về thuế
quan hay mở cửa thị trường để đánh đổi việc các nước đối tác phải nâng cao tiêu
chuẩn về lao động, môi trường và chất lượng sản phẩm để phù hợp với đòi hỏi của
Mỹ. Điều này làm vài nước lo ngại sẽ bị thiệt thòi khi tham gia IPEF.
Tuy nhiên
việc mở cửa thị trường không phải là vấn đề quan trọng đối với VN. VN đã xuất
khẩu nhiều sang Mỹ, chiếm vị trí thứ 10 trong số các nước có kim ngạch xuất nhập
khẩu lớn nhất đối với Mỹ và thứ 3 trong số các nước có xuất siêu lớn nhất đối với
Mỹ. Quan trọng hơn cho VN là cơ hội thu hút đầu tư và đào tạo có thể nâng cao
chất lượng công nghiệp và sản phẩm của VN phù hợp với tiêu chuẩn cao của Mỹ—như
thế sẽ phát triển nền kinh tế lên một bậc và có thể được coi là một khâu của
các chuỗi cung ứng an ninh và bền vững. Vì thế VN nên tích cực tham gia đàm
phán về IPEF cũng như các đề án và chương trình cộng tác mà Bộ Tứ đã đề xuất.
Điều quan trọng là hướng và tập trung việc đàm phán vào các dự án, chương trình
cụ thể nhằm tạo cơ hội hợp tác, huy động đầu tư và đào tạo, chuyển giao công
nghệ trong các ngành kinh tế và công nghiệp cần thiết cho VN; và tránh đặt ra vấn
đề chống hoặc bao vây một nước thứ ba nào.
IPEF dựa trên bốn trụ cột chính; các
nước tham gia đàm phán có thể chọn một vài hay tất cả các trụ cột. Mỗi trụ cột
đưa ra cơ hội cho VN nhưng cũng đặt ra một số vấn đề.
Trụ cột thứ nhất là thương
mại tự do và công bằng (free
and fair trade)—chủ yếu nhằm phát triển thương mại tự do nhưng không để nước
nào cạnh tranh không theo luật lệ gây thiệt hại cho nước khác (nhất là Mỹ). Cụ
thể là tăng sự kết nối và tin cậy giữa các nước trong khu vực dựa trên tiêu chuẩn
và luật lệ chung cho nền kinh tế số hoá và các công nghệ mới xuất hiện, các
tiêu chuẩn về lao động và môi trường, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất
nhập khẩu (trade facilitation), tính minh bạch, các thực hành luật lệ tốt và
trách nhiệm của doanh nghiệp. Đề mục thương mại số hoá nhằm xây dựng tiêu chuẩn
cho việc giao lưu dữ kiện số giữa các nước, yêu cầu địa phương hoá dữ kiện
(data localization), bảo vệ sự riêng tư trên mạng và chống việc kỳ thị và các
hành vi mất đạo đức trong tri thức nhân tạo AI. Kinh tế số hoá là lãnh vực hiện
đại và có tiềm năng rất lớn nên VN có lợi nhiều khi tham gia đề tài này để có
thể phát triển kinh doanh số hoá cùng với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, VN
phải giải quyết các khác biệt giữa yêu cầu của Mỹ là tự do giao lưu dữ kiện và
không đòi hỏi địa phương hoá dữ kiện, với luật lệ của VN nhất là luật về an
ninh mạng.
Đề mục hỗ
trương thương mại nhằm triển khai hiệp ước Hỗ Trợ Thương Mại (Trade
Facilitation) của WTO được ký kết năm 2017 trong khu vực—nhằm hợp lý và đơn giản
hoá các thủ tục và giấy phép xuất nhập khẩu. Việc này sẽ giúp các doanh nghiệp
vừa và nhỏ có thể tiếp cận với thị trường thế giới—mà từ trước tới nay các
doanh nghiệp lớn có nhiều lợi thế hơn. Điều này rất phù hợp với chính sách phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của VN. Đề mục nâng cao tiêu chuẩn lao động và
môi trường có thể gây khó khăn cho VN, nhất là có thể đẩy lương công nhân và
phí tổn các các biện pháp bảo vệ môi trường—làm bớt đi lợi thế cạnh tranh giá rẻ
của một nước đang phát triển như VN. Tuy nhiên VN có thể sử dụng kinh nghiệp
trước đây đã đàm phán với Mỹ về các vấn đề này trong quá trình thương lượng
Trans Pacific Partnership (TPP). Các mục còn lại về tính minh bạch trong thương
mại, cách áp dụng luật lệ tốt và trách nhiệm của doanh nghiệp nói chung sẽ giúp
VN cải thiện môi trường kinh doanh của mình.
Trụ cột thứ hai của IPEF là xây dựng
chuỗi cung ứng an toàn và bền vững, có khả năng chịu sốc cao. Kinh nghiệm mấy năm thương chiến Mỹ-Trung và đại dịch
Covid-19 cho thấy cần phải sắp xếp lại các chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là
trong các lãnh vực quan trọng cần thiết như chip bán dẫn hay dược phẩm thiết yếu,
để giảm nguy cơ bị gián đoạn bởi các sự cố thiên tai, dịch bệnh hay quyết định
cấm vận của một chính phủ. Cụ thể là chuyển dịch các cơ sở sản xuất trong chuỗi
cung ứng để bớt lệ thuộc vào một nước như TQ, sang các nước có điều kiện kinh
doanh và sản xuất thích hợp nhưng thân thiện, có phối hợp thông tin chặt chẽ và
đáng tin cậy hơn. VN đã được coi là một điểm đến quan trọng trong việc chuyển dịch
này. Nếu có thể cam kết cải cách kinh tế và hành chính nhằm đạt yêu cầu để tham
gia vào chuỗi cung ứng của IPEF, thì VN sẽ tăng khả năng cạnh tranh thu hút FDI
từ các nước trong khu vực, nhất là từ Mỹ—rất cần thiết để hiện đại hoá công
nghiệp.
Trụ cột thứ ba là xây dựng cơ sở hạ tầng
cho năng lượng sạch và xanh. Đây cũng là nhu cầu thiết thân của
VN để thực hiện việc chuyển đổi năng lượng. Nếu trong lúc đàm phán, VN có thể
tranh thủ được cam kết viện trợ, đầu tư và đài tạo chuyên gia và công nhân
trong các lãnh vực hạ tầng này thì rất hữu ích cho VN. Tuy nhiên, các cam kết
giảm khí thải CO2 của VN phải thích hợp với điều kiên kinh tế của VN.
Trụ cột thứ tư là cải cách thuế để
tránh việc các doanh nghiệp đa quốc gia tìm cách trốn thuế bằng cách ghi nhận lợi nhuận ở
các nước có thuế suất thấp và lỏng lẻo và chống các hình thức tham nhũng giữa
doanh nghiệp và viên chức nhà nước làm méo mó quan hệ sản xuất giữa các nước.
Vì VN đã tham gia thương lượng và ký kết vào Công Ước về thuế doanh nghiệp
toàn cầu trong tháng Hai vừa qua nên việc đàm phán về cải cách thuế doanh nghiệp
có thể không khó khăn lắm.
Nói chung,
VN nên tập trung vào trụ cột hai và ba có thể mang lại nhiều lợi ích có tầm cỡ
chiến lược cho VN, sau đó là trụ cột một và bốn.
Các dự án mà Bộ Tứ đề xuất
Tuyên bố
chung của hội nghị thượng đỉnh Quad cũng đề xướng một số dự án
cụ thể có lợi ích cho các nước trong khu vực.
- Các
nước Quad cam kết sẽ trợ giúp và đầu tư hơn 50 tỷ đô la vào cơ sở hạ tầng trong
khu vực trong 5 năm tới—để tăng năng suất kinh tế.
- Chương
trình Q-CHAMP (Quad Climate Change Adaptation and Mitigation Package) sẽ cộng
tác với các nước xây dựng hàng hải và năng lượng xanh với chuỗi cung ứng năng
lượng sạch.
- Quan
hệ đối tác an ninh cyber (Quad Cybersecurity Partnership) nhằm bảo vệ các cơ sở
hạ tầng thiết yếu chống sự tấn công cyber bằng cách phối hợp và nâng cao tiêu
chuẩn an ninh cyber; giúp đào tạo khả năng của các nước trong lãnh vực này.
- Bộ
Tứ cũng muốn đẩy mạnh chương trình tăng sự liên kết và an ninh các công nghệ mới,
đặc biệt là 5G bằng cách đa phương hóa nguồn cung cấp thiết bị, chủ yếu là qua
công nghệ O-RAN (Open Radio Access Network—với cơ sở hạ tầng viễn thông 5G mở
cho nhiều doanh nghiệp cung cấp các bộ phận khác nhau cho hạ tầng chứ không phụ
thuộc vào một doanh nghiệp không tin cậy được (như Hoa Vi).
- Về
không gian, Bộ Tứ sẽ thực hiện Quad Satelite Data Portal để chia sẻ thông tin,
dữ kiện quan sát trái đất từ vệ tinh để nâng cao khả năng theo dõi thay đổi khí
hậu, đối phó với thiên tai và khai thác một cách bền vững tại nguyên biển. Đặc
biệt quan trọng là xây dựng quan hệ đối tác nhằm tăng cường nhận thức về biển
(Indo-Pacific Partnership for Maritime Domain Awareness) để đối phó với thiên tai,
cứu nạn nhân đạo và chống đánh cá lậu (TQ là nước đánh cá lậu trái phép nhiều
nhất trong khu vực và các nơi khác).
Nói chung
các dự án và hoạt động mà Bộ Tứ đề xướng rất thiết thực và hữu ích. Các dự án
này có khả năng hiện thực cao, dựa trên thành tích đã cung cấp thuốc chích ngừa
Covid-19 thực hiện các tuyên bố trước đó. Các nước trong Bộ Tứ đã đóng góp 5,2
tỷ đô la cho chương trình COVAX toàn cầu (40% phần đóng góp của cả thế giới),
đã cung cấp 670 triệu liều thuốc chích ngừa gồm cả 265 triệu liều cho khu vực.
Kết luận
VN nên tích cực đàm phán để có thể tham gia, có chọn lọc, các chương trình và dự
án mà IPEF và Bộ Tứ đã đề xướng. Việc đàm phán nên tập trung vào mặt tích cực
là các dự án và hoạt động cụ thể, nhằm tranh thủ viện trợ, đầu tư và đào tạo để
nâng cấp nền kinh tế và công nghiệp VN; để được coi là một khâu an ninh, bền vững
và đáng tin cậy—như thế sẽ rất có lợi trong tiến trình chuyển dịch các chuỗi
cung ứng toàn cầu. Cần hạ thấp vấn đề tập hợp các nước trong khu vực để bao vây
một nước thứ ba. Phía Mỹ cũng tỏ ra uyển chuyển trong vấn đề này, tạo điều kiện
để nhiều nước có thể đồng ý tham gia—đặt biệt là nâng cấp quan hệ Mỹ-ASEAN lên
mức toàn diện và chiến lược, ngang hàng với TQ. Các tuyên bố chung của Hội Nghị
Thượng Đỉnh Bộ Tứ và US-ASEAN đều không nêu tên nước nào, chỉ ủng hộ các nguyên
tắc chung mà các nước có thể đồng tình như tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến
Chương LHQ và Luật Biển UNCLOS, bảo vệ hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của mọi nước, chống việc dùng vũ lực để đe doạ các nước khác
và đơn phương thay đổi nguyên trạng trong khu vực. Các nguyên tắc này và chương
trình hoạt động của IPEF và Bộ Tứ có thể suy diễn để phù hợp với quan điểm của
ASEAN về Ấn Độ-TBD (ASEAN Outlook on Indo-Pacific) với bốn lãnh vực ưu
tiên là hợp tác về biển, liên kết về kinh tế, phát triển bền vững và hợp tác
kinh tế.
Nói tóm lại,
đây là cơ hội tốt để VN tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, vừa góp
phần bảo vệ hòa bình, ổn định vừa tranh thủ điều kiện để hiện đại hóa công nghiệp.
Trần Quốc
Hùng
Attachments
No comments:
Post a Comment