Đánh
bại Nga có giúp ngăn chặn chiến tranh trong tương lai?
Stephen M. Walt - Foreign Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
09/06/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/06/09/danh-bai-nga-co-giup-ngan-chan-chien-tranh-trong-tuong-lai/
Lời kêu
gọi giành chiến thắng quyết định trước quân Nga là sai lầm, và không nhất thiết
sẽ ngăn cản Putin hoặc những người khác sử dụng vũ lực.
Những nhân
vật phương Tây – chẳng hạn như Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg – ủng hộ việc
hỗ trợ ngày càng nhiều hơn cho Ukraine đôi khi ám chỉ rằng một thất bại quyết định
đối với người Nga sẽ giúp ngăn cản chiến tranh trong tương lai ở những nơi
khác. Nếu Nga bị đánh bại hoàn toàn, hoặc chí ít là không thể đạt được bất kỳ lợi
ích đáng kể nào, thì phương Tây sẽ chứng minh rằng “hiếu chiến là vô ích.”
Không chỉ riêng Tổng thống Nga Vladimir Putin sẽ rút ra bài học cho mình và
không bao giờ thử bất cứ điều gì giống như cuộc chiến này nữa, mà các nhà lãnh
đạo khác đang dự tính sử dụng vũ lực – chẳng hạn như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình – cũng buộc phải suy nghĩ thật kỹ trước khi hành động tương tự.
Một số nhà
quan sát, chẳng hạn như Francis Fukuyama, thậm chí còn đi xa hơn khi cho rằng một
thất bại mang tính quyết định của Nga có thể chấm dứt tình trạng khó khăn mà chủ
nghĩa tự do phương Tây đang trải qua trong những năm gần đây, và khôi phục lại
“tinh thần của năm 1989”.
Tuy nhiên,
nếu Ukraine và phương Tây không thể khiến kẻ hiếu chiến là Nga phải hứng chịu
thất bại nặng nề, và nếu Kyiv cuối cùng buộc phải thỏa hiệp với Moscow, thì những
lý tưởng phi tự do sẽ được chứng thực phần nào, và nguy cơ xảy ra chiến tranh
trong tương lai (bao gồm cả những ván cược mới của người Nga) sẽ tăng lên. Như
Tổng thống Mỹ Joe Biden đã viết trên tờ New York Times: “Nếu Nga không
phải trả giá đắt cho hành động của mình, điều đó sẽ gửi một thông điệp tới những
kẻ xâm lược khác rằng họ cũng có thể chiếm đóng lãnh thổ và buộc nước khác phải
phục tùng.” Đáng báo động hơn, nhà sử học Timothy Snyder cảnh báo rằng “số phận
của các nền dân chủ đang trong thế ngàn cân treo sợi tóc.”
Các lập luận
kiểu này đã trở thành đặc điểm của đường lối cứng rắn (và đặc biệt là của chủ
nghĩa tân bảo thủ) trong hàng thập niên qua. Giống như lý thuyết domino, thứ vẫn
còn tồn tại dù thường xuyên bị bác bỏ, những tuyên bố như vậy biến kết quả của
một cuộc xung đột đơn lẻ thành cuộc tranh đấu cho số phận của toàn bộ hành
tinh. Lựa chọn mà chúng ta được cho là phải đối mặt là một lựa chọn cực kỳ khó
khăn. Con đường thứ nhất: một trật tự tự do mới hồi sinh, dẫn đầu bởi một liên
minh thống nhất của các nền dân chủ mạnh mẽ, yêu chuộng hòa bình, và một tương
lai nơi chiến tranh là hiếm hoi còn sự thịnh vượng thì có mặt ở khắp nơi. Con
đường thứ hai: một thế giới của những chế độ chuyên chế mới nổi, chủ trương xóa
bỏ nhân quyền, và gây thêm nhiều chiến tranh hơn nữa. Theo quan điểm này,
Ukraine phải thắng, thắng lớn, bởi nếu không mọi thứ sẽ lụi tàn.
Việc đóng
khung vấn đề theo cách này dẫn tới việc luôn phải nỗ lực hành động hơn nữa, và
từ chối bất kỳ hình thức thỏa hiệp nào, nhưng phải chăng sự lựa chọn vẫn luôn
khó khăn như lời những người cứng rắn? Đánh bại một kẻ xâm lược có thực sự dạy
những kẻ còn lại biết cư xử tốt hơn hay không? Thế giới hẳn đã bình yên nếu như
giả định này là đúng, tuy nhiên, lịch sử thế kỷ trước lại cho chúng ta thấy điều
ngược lại.
Hãy bắt
đầu với Thế chiến I.
Dù tất cả các cường quốc châu Âu đều đóng vai trò nhất định trong việc khơi mào
chiến tranh, nhưng người Đức là động lực chính của Khủng hoảng Tháng Bảy năm
1914. Quá lo sợ trước sức mạnh ngày càng tăng của Nga, các nhà lãnh đạo Đức đã
sử dụng vụ ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo, cùng với cuộc đối đầu giữa
Áo-Hung và Serbia làm cơ hội mở đường cho một cuộc chiến phòng ngừa nhằm giành
bá quyền châu Âu. Kết quả là bốn năm chiến tranh kinh hoàng, Đức thất bại hoàn
toàn dưới tay phe Đồng minh Hiệp ước, chế độ quân chủ Hohenzollern cũng như các
đồng minh Áo-Hung và Ottoman đều đi đến hồi kết, và một hiệp ước hòa bình có
tính trừng phạt nặng nề đã được áp đặt.
Tuy nhiên,
thực tế rõ ràng rằng Đức đã thất bại vẫn không khiến Adolf Hitler chùn bước khi
thực hiện nỗ lực của riêng mình nhằm giành lấy bá quyền châu Âu 20 năm sau đó.
Mà thật ra, chính câu chuyện về việc Đức bị đâm sau lưng và nền hòa bình khắc
nghiệt mà Hiệp ước Versailles áp đặt đã giúp thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa
Quốc xã và tạo tiền đề cho một cuộc chiến khác. Cuộc tàn sát trong Thế chiến I
cũng không dạy cho Đế quốc Nhật hiểu rằng cố gắng xây dựng đế chế của riêng
mình ở châu Á là một ý tưởng tồi.
Những kẻ
xâm lược chính này đã bị trừng phạt nghiêm khắc trong Thế chiến II. Nhật Bản
liên tục bị dội bom, và hai trong số các thành phố của nước này đã bị phá hủy bởi
bom nguyên tử; Đức bị chiếm đóng và sau đó bị chia cắt thành hai quốc gia riêng
biệt; Hitler và nhà lãnh đạo Ý Benito Mussolini đều mất mạng. Thật khó để tìm
ra ví dụ nào nổi bật hơn cho “hiếu chiến là vô ích”, nhưng điều tốt là Đức và
Nhật đều đã học được bài học đó. Tuy nhiên, bài học này không ngăn được Kim Nhật
Thành tấn công Hàn Quốc vào năm 1950 (với sự ủng hộ hoàn toàn từ Joseph
Stalin), hay thuyết phục nhiều nhà lãnh đạo khác ở châu Á hoặc Trung Đông rằng
tiến hành chiến tranh luôn là điều không khôn ngoan.
Tương tự,
người ta có thể nghĩ rằng kinh nghiệm của Pháp và Mỹ ở Việt Nam sẽ là một lời
nhắc nhở sống động và lâu dài về sự nguy hiểm của thói kiêu ngạo và giới hạn của
sức mạnh quân sự, chưa kể đến sự vô ích của việc cố gắng xây dựng quốc gia nơi
một xã hội bị chia rẽ sâu sắc, mà không có một đối tác địa phương đủ tài năng.
Tuy nhiên, chính quyền George W. Bush đã chẳng quan tâm đến bài học này khi xâm
lược Afghanistan năm 2001 và Iraq năm 2003.
Xin lưu ý,
không chỉ các cường quốc mới phải gánh những bài học cay đắng sau khi phát động
một cuộc chiến tranh gây hấn. Quay trở lại năm 1982, chính quyền quân sự của
Argentina tuyên bố rằng quần đảo Falkland thuộc Anh (mà họ gọi là Malvinas) là
của họ và quyết định chiếm lãnh thổ bằng vũ lực. Quân Anh đã đánh chìm soái hạm
của Hải quân Argentina và chiếm lại quần đảo thành công, trong khi đó, các cuộc
biểu tình ở Argentina cuối cùng đã đẩy các vị tướng ra khỏi chiếc ghế quyền lực.
Saddam
Hussein của Iraq cũng phải chịu số phận tương tự. Quyết định tấn công Iran của
ông vào năm 1980 đã dẫn đến gần 8 năm chiến tranh, khiến hàng trăm nghìn người
Iraq thiệt mạng và nền kinh tế Iraq suy sụp. Hai năm sau, ông quyết định giải
quyết các vấn đề kinh tế mà cuộc chiến đầu tiên đã tạo ra bằng cách chiếm
Kuwait láng giềng, chỉ để rồi phải chịu cảnh bị đẩy lùi trong ô nhục bởi một liên
minh do Mỹ dẫn đầu, và phải chịu các lệnh trừng phạt nặng nề của Liên Hiệp Quốc.
Kẻ hiếu chiến đã không thu được gì trong cả hai trường hợp, nhưng những thất bại
của Saddam không ngăn cản các quốc gia khác – kể cả một số nền dân chủ nổi bật
– tự mình phát động những cuộc chiến mới.
Nếu những
thất bại đau đớn thực sự gửi đi cảnh báo rõ ràng cho những kẻ hiếu chiến khác,
thì kinh nghiệm của Liên Xô và Mỹ ở Afghanistan, cũng như kinh nghiệm của Mỹ ở
Iraq sau năm 2003 đáng lẽ phải dạy cho Putin và các cộng sự của ông rằng xâm lược
Ukraine có khả năng kích động một phản ứng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ và khuyến
khích các cường quốc bên ngoài làm mọi điều họ có thể để cản trở mục tiêu của Tổng
thống Nga. Chắc chắn ông biết rằng Mỹ đã ngăn Liên Xô chiếm đóng Afghanistan bằng
cách viện trợ cho phiến quân thánh chiến, tương tự như những gì Syria và Iran
đã làm để giúp quân nổi dậy Iraq đánh bại nỗ lực của Mỹ ở Iraq. Bài học của hai
cuộc xung đột này đã quá rõ ràng, nhưng Putin dường như đã tự thuyết phục mình
rằng chúng không thể áp dụng cho Ukraine.
Tất nhiên,
không phải mọi cuộc chiến xâm lược đều kết thúc bằng thất bại, nhưng không thiếu
những trường hợp kẻ xâm lược phải hứng chịu thất bại nặng nề, và kẻ bắt đầu cuộc
chiến phải trả giá đắt cho sự điên rồ của mình. Tuy nhiên, bài học “hiếu chiến
là vô ích” thường bị bỏ qua hoặc lãng quên. Tại sao lại vậy?
Một lý do
là bài học của mỗi cuộc chiến không phải lúc nào cũng rõ ràng, và mỗi cá nhân
có thể rút ra một kết luận khác nhau từ một thất bại. Tham chiến thực sự là ý
tưởng tồi ngay từ đầu, hay thất bại đến từ việc triển khai kém, hay đơn giản là
do kém may mắn? Bài học từ một cuộc chiến thất bại cũng sẽ không được cân nhắc
nếu các nhà hoạch định chính sách tin rằng tình thế lần này đã khác, và kiến thức
mới, công nghệ mới, một chiến lược mới khôn ngoan hơn, hoặc một bối cảnh chính
trị đặc biệt thuận lợi sẽ mang lại thành công cho lần đánh chiếm này. Đừng bao
giờ đánh giá thấp những gì mà giới tinh hoa có thể nói ra để thuyết phục mình,
nếu họ thực sự muốn tham chiến.
Vấn đề thứ
hai – một vấn đề được nhấn mạnh trong công trình của học giả quá cố Robert
Jervis – là con người có xu hướng coi trọng kinh nghiệm của chính mình hơn là
kinh nghiệm của người khác. Các nhà lãnh đạo ở một quốc gia có thể rất quen thuộc
với lịch sử nước mình (dù họ có thể đã tiếp thu một phiên bản cải biên của nó),
nhưng họ sẽ ít biết và ít quan tâm hơn đến những gì đã xảy ra với các quốc gia
khác trong những hoàn cảnh tương tự.
Thật dễ
dàng để bỏ qua thất bại của một quốc gia khác, bằng cách cho rằng nguyên nhân
chiến đấu của họ là không chính đáng, quyết tâm của họ không cao, và quân đội của
họ không đủ năng lực như của “chúng ta.” Hơn nữa, bởi vì các quyết định tham
chiến thường phản ánh sự cân nhắc phức tạp giữa các mối đe dọa, cơ hội, chi phí
dự kiến, và các lựa chọn thay thế, những gì đã xảy ra với một quốc gia khác
trong một cuộc xung đột hoàn toàn khác có thể không đóng vai trò lớn trong tính
toán của những nhà lãnh đạo này.
Hơn nữa,
những nhà lãnh đạo quyết định phát động chiến tranh thường nhận thức được rằng
có rủi ro đi kèm, và đôi khi họ cũng thừa nhận khả năng chiến thắng là rất nhỏ.
Ngay cả thế, họ vẫn sẽ “tung xúc xắc sắt” nếu họ tin rằng giải pháp thay thế thậm
chí còn tồi tệ hơn. Xin lấy một ví dụ nổi bật, các nhà lãnh đạo Nhật Bản vào
năm 1941 hiểu rằng người Mỹ mạnh hơn rất nhiều và việc tấn công Trân Châu Cảng
là một canh bạc lớn có thể sẽ thất bại. Tuy nhiên, họ tin rằng giải pháp thay
thế là cúi đầu trước áp lực của Mỹ, đồng thời từ bỏ nhiệm vụ giành vị thế cường
quốc và thống trị châu Á – một kết quả mà họ cho là vô cùng tồi tệ.
Tóm lại,
các nhà hoạch định chính sách của Mỹ không nên quyết định hành động ngày hôm
nay của họ dựa trên niềm tin rằng chiến thắng ở Ukraine (hoặc Yemen, hoặc
Ethiopia, hoặc Libya) sẽ làm xoay chiều lịch sử theo hướng có lợi cho họ. Kết
quả của các cuộc xung đột ngày nay cũng không ảnh hưởng nhiều đến cách các nhà
lãnh đạo tương lai nghĩ về triển vọng của chính mình, khi họ quyết định có phát
động chiến tranh hay không.
Có những
lý do chính đáng để ủng hộ nỗ lực chống lại Nga của Ukraine (dù người ta có thể
không thể đồng ý về mức độ của sự ủng hộ đó), nhưng tương lai của nền dân chủ
không hề ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Thay vì coi cuộc chiến này là cơ hội để dạy
cho Nga một bài học, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung vào việc xác định
các lợi ích và vấn đề cụ thể đang bị đe dọa ngay lúc này, và cố gắng đưa ra một
giải pháp hòa bình có thể đem lại cho các bên những gì họ muốn đủ để ngăn chặn
một đợt giao tranh khác.
Tìm ra
cách để làm điều đó tự nó đã là một nhiệm vụ khó, nhưng chúng ta còn cần không
tự lừa dối bản thân, rằng số phận của nhân loại phụ thuộc vào kết quả của nó.
-----------------------
Stephen
M. Walt là một cây bút chuyên mục của Foreign Policy, ông đồng thời là giáo sư quan
hệ quốc tế tại Đại học Harvard.
Nguồn: Stephen M. Walt, “Will
Teaching Aggressors a Lesson Deter Future Wars?,” Foreign Policy,
02/06/2022
No comments:
Post a Comment