Kiều
Chinh trên "USA Today" -- Ngày 30/4
29/04/2022
https://vietbao.com/p301414a311966/kieu-chinh-tren-usa-today-ngay-30-4
Tháng Tư Đen
https://vietbao.com/images/file/oLLpdPcp2ggBAN54/w600/screenshot-2022-04-29-084801.jpg
Kiều Chinh trên USA Today, số ra ngày 29/4/2022, với
bài viết liên quan đến biến cố 30/4/1975.
USA Today, tờ báo có số lượng phát hành rộng
rãi nhất nước Mỹ, hôm nay, 29/4, có bài đặc biệt về nữ tài tử Kiều Chinh nhân
đánh dấu biến cố 30/4 với sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam. Xin truy cập vào
trang mạng sau để đọc bài viết:
Vietnam
War, fall of Saigon 47 years later: Kieu Chinh artist in exile (usatoday.com)
Rất nhiều chi tiết trong bài viết được trích dẫn từ cuốn Hồi Ký của bà, “KIỀU
CHINH An Artist in Exile” do NXB Văn Học Press xuất bản lần đầu năm 2021. Việt
Báo, với sự cho phép của nữ tài tử Kiều Chinh, xin đăng lại đây những dòng chữ
thuật lại trải nghiệm của bà trong những ngày u tối, bi thảm nhất của đất nước
Việt Nam. Xin cảm ơn Kiều Chinh.
https://vietbao.com/images/file/JOrviPgp2ggBAGZQ/w409/kc-preorder.jpg
KIỀU CHINH An Artist in Exile, A Memoir.
Trích đoạn Hồi Ký (Ấn bản Việt ngữ):
Phim Full House và chiến sự Việt Nam
Full House là một phim vui về
giới trẻ Singapore ở khía cạnh hội hè, chạy theo thời trang, của những đợt sống
mới. Phim khởi quay cuối tháng 2 thì chưa đầy hai tuần sau, chính xác là ngày
10 tháng 3, xe tăng Cộng sản bất ngờ tràn ngập thành phố Ban Mê Thuột, khởi đầu
cuộc tổng tấn công tất cả các thành thị ở miền Nam. Tiếp theo, quân đội VNCH được
lệnh rút bỏ Pleiku, Kontum, rồi miền Trung.
Ngày ngày tôi vẫn làm đúng và cố gắng làm tốt vai trò của mình trong bộ
phim Full House, nhưng đêm tới lòng tôi như lửa đốt. Tôi không
ngừng theo dõi tin tức cùng những bình luận của các hãng truyền thông quốc tế về
tình hình miền Nam. Thật đau buồn khi nghe các hãng đều đưa một tin giống nhau
là sự sụp đổ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Cách khác, không một
phép lạ nào còn có thể cứu nổi miền Nam.
Hằng đêm tôi vẫn dán mắt vào TV, chứng kiến cảnh miền Trung hỗn loạn, chết
chóc! Xác người trên sông Ba, khi dân chúng cũng như quân nhân được lệnh rút khỏi
Pleiku, chạy ra Tuy Hòa, phải vượt qua sông Ba, bị quân Cộng sản nã pháo bắn chặn…
Cùng lúc đó, tôi liên tiếp nhận được điện tín khẩn cấp, đánh đi từ Sài Gòn của
gia đình hay Toronto từ các con tôi. Chỉ với một nội dung cấp
bách: “Yêu cầu trở lại ngay Toronto với các con! Đừng về Sài
Gòn.”
Nhưng chồng, bố chồng, gia đình nhà chồng còn kẹt ở Sài Gòn. Làm sao tôi có thể
lặng lẽ bay qua Toronto? Khi cách gì thì các con tôi cũng đang được ở một nơi
chốn không thể an lành hơn. Chuyện sinh tử rình rập từng phút không trên đầu
các con tôi mà chính là chồng, bố chồng, chị Sâm và những người thân thuộc
trong gia đình nhà chồng.
Ngày quay cuối cùng của cuốn phim, sau đó tôi cắt băng khánh thành một rạp chiếu
bóng mới nhất của Singapore và dự dạ tiệc do hãng phim tổ chức tiễn chân tôi.
Xong, tôi vội vã đáp chuyến bay Singapore-Sài Gòn, đúng ngày 16 tháng 3 năm
1975. Chuyến bay trống trơn. Tôi là hành khách duy nhất bay ngược về Sài Gòn
trong khi hàng triệu người đang nhốn nháo tìm đường ra đi. Một nhân viên phi
hành cho biết đây là chuyến bay khẩn cấp về đón nhân viên ngoại giao và kiều
dân rời Sài Gòn. Về tới Tân Sơn Nhất, số tiền thù lao đóng ba phim, hai ở Thái
Lan và một ở Singapore mang về, bị buộc phải đổi thành tiền Việt Nam thời đó,
tôi mang một bao bố tiền Việt Nam về nhà. Thấy vậy, Tế và bố chồng tôi kêu trời
vì đã bảo đừng về, và phải giữ lại dollars…
Về Sài Gòn, từng giờ chứ không phải từng ngày tôi thấy sau Huế, Đà Nẵng là Quy
Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết rồi Bình Tuy, Long Khánh liên tiếp thất
thủ, Sài Gòn càng lúc càng trở nên hoảng loạn, điên dại trong tuyệt vọng. Từng
đoàn người lũ lượt, rồng rắn từ các vùng kéo nhau đổ về thành phố, trong lúc
dân Sài Gòn và hàng vạn người khác lại nháo nhào tìm đường ra đi! Đường phố
đông nghẹt người, ai nấy hớt hơ hớt hải, vội vàng lo lắng đi tìm nhau, tìm đường
ra đi. Đủ loại xe máy, xích lô, cam nhông, công-voa nhà binh… chạy ngược xuôi,
hoảng loạn.
Tin đồn lại chiếm được ưu thế nhất. Nào là sẽ có thương tuyết giữa Nam-Bắc để
ngưng chiến. Sẽ có một chính phủ hòa hợp hòa giải được cả hai bên và quốc tế
công nhận. Miền Trung sẽ là vùng trái độn. Chính phủ Pháp sẽ lại đưa vua Bảo Đại
về nước, v.v…
Đây cũng là lúc tôi nghĩ tới bố và anh Lân, nếu như tin đồn là sự thật thì tôi
hy vọng được gặp bố và anh. Đồng thời, đó cũng là lúc điện tín cũng như điện
thoại của các con tôi ở Canada liên tiếp hối thúc tôi phải ra khỏi Việt Nam, phải
rời khỏi Sài Gòn, bằng cách nào sớm nhất. Tôi biết vì đang sinh sống ở Canada với
gia đình hai bác Hòa, Mão nên các con tôi cập nhật được những tin tức mới nhất
và chính xác nhất.
Ngay bố chồng và chồng tôi cũng hối thúc tôi phải ra khỏi nước ngay lập tức bằng
mọi cách trong lúc tôi còn thông hành ngoại giao ra đi lúc nào cũng được! Tôi bị
giằng co, dày vò, bấn loạn giữa ở và đi!
Trong tôi hình ảnh đứa con gái mới 16 tuổi thình lình mất bố, bơ vơ, sợ hãi
trong hoàn cảnh đất nước chia đôi thời 1954, trở lại như những tia chớp lóe
trong đầu giúp tôi tỉnh ngộ. Tôi muốn nói chính hình ảnh của tôi 21 năm trước,
trong một đêm ở phi trường Hà Nội, đã chỉ cho tôi thấy con đường tôi phải đi, bổn
phận tôi phải làm, dù quyết định ấy tôi phải trả một cái giá rất đắt, đau đớn
tinh thần cũng như thể chất, chia tay gia đình chồng để ra đi vì ba đứa
con nhỏ dại. Tôi không thể để chúng côi cút nơi xứ người,
hoảng loạn mất cha mẹ như tôi đã mất bố, một khi Sài Gòn thất thủ, đổi chủ,
sang trang.
Nhờ sự thúc giục của gia đình và nhất là sự giúp đỡ tận tình của
người bạn thân, anh Nguyễn Xuân Thu, Phó Giám đốc hãng Hàng Không Việt Nam, nửa
đêm giữa giới nghiêm, lái xe của Air Việt Nam với cờ VIP đưa tôi vào lọt phi
trường. Anh Thu nói sáng sớm mai sẽ có chuyến bay cuối cùng của Air Viet Nam đi
Philippines, anh đã thu xếp có nhân viên đón và lo cho tôi mọi chuyện khi tới nơi.
Phi trường Tân Sơn Nhất đông nghẹt người, đa số là vợ con người
Việt đi theo chồng ngoại quốc hay
tiễn chân chồng. Những tiếng dặn dò, khóc lóc ồn ào vang động.
Sáng ra, sắp tới giờ máy bay cất cánh thì phi trường bị pháo kích, cảnh tượng hỗn
loạn. Anh Thu kéo tôi trở lại phòng VIP của Air Vietnam. Không một máy bay nào
cất cánh suốt ngày hôm đó. Chờ đợi qua một đêm trong không khí ngột ngạt cho tới
sáng ngày hôm sau. Anh Thu bỏ tôi ngồi đó chạy đi lo chuyện, lúc trở lại anh
nói: “Được rồi, mau mau đi! Không mang theo gì cả! Có một chuyến bay của Pan
American chở nhân viên dân sự và quân sự Mỹ rời Sài Gòn.” Tôi vội vã choàng cái
xách tay vào cổ.
Thu lôi tôi chạy băng qua phi đạo, đẩy tôi lên chiếc máy bay đông nghẹt người,
anh lên theo thu xếp cho tôi ngồi ở ghế của nhân viên phi hành nơi cuối thân
bay, cạnh phòng vệ sinh. Anh nắm tay tôi: “Chinh đi.” Tôi nhìn Thu tất tả đi
ngược trở ra trước khi cánh cửa máy bay đóng lại, chưa kịp hỏi Thu máy bay sẽ
đi đâu. Nguyễn Xuân Thu ơi! Cám ơn Thu. Sau cùng thì tôi cũng lên được chuyến
bay cuối cùng rời khỏi Sài Gòn.
Mới tuần trước tôi trở lại Sài Gòn với một bao tiền Mỹ kim (dù cuối cùng bị đổi
hết sang tiền Việt) thì ngày tất tả ra đi tôi không có một vật dụng nào mang
theo, ngoài chiếc ví tay nhỏ, có vài chục Mỹ kim sót lại, một cuốn sổ điện thoại,
và giấy thông hành.
Tôi không biết có phải định mệnh đã tái diễn một lần nữa hay không? Khi mà 21
năm sau chuyến bay rời khỏi Hà Nội, tôi lại một mình bỏ hết. Ra đi. Lần này,
tôi đi khỏi Việt Nam, quê hương tôi, để bắt đầu phần đời của một nghệ sĩ lưu
vong, sống bên ngoài tổ quốc của mình!
Những ngày đen tối
Tháng 4, chính xác là 30 tháng 4, 1975, chính
phủ VNCH của miền Nam mới thực sự bị sụp đổ.
Đó là ngày Bắc quân Cộng sản lăn những vòng
xích xe tăng đầu tiên trên đại lộ Thống Nhất ở Sài Gòn, ủi sập cổng sắt Dinh Độc
Lập sau khi đại tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn
thể quân đội miền Nam phải buông súng, chờ bàn giao miền Nam cho chính quyền miền
Bắc.
Nhưng trước đó, có rất nhiều tin đồn về các giải pháp chính trị cho miền Nam
khiến một số không nhỏ người dân tin theo những tin đồn ấy. Hai trong số những
tin đồn được nhiều người tin tưởng nhất đó là:
– Giải pháp cắt một phần đất miền Trung làm trái độn cho các phe tham chiến ở
miền Nam có thời gian thương thảo trong một thời gian dài lâu trước khi đi đến
một chọn lựa chung cuộc, xuyên qua một cuộc thăm
dò dân ý, xem người dân miền Nam có muốn trở thành trung lập,
hay đi theo thể chế Cộng sản của miền Bắc.
– Trung lập hóa toàn thể miền Nam trong vòng 2 năm trước khi chuyển thành
một thể chế chính trị nào đó mà người dân miền Nam được quyền quyết định.
Đó là một trong vài nguyên nhân chính khiến một số không nhỏ
người đã không nghĩ tới chuyện phải chuẩn bị ra đi! Để cuối cùng, ngoài hàng
trăm ngàn công chức, quân nhân của chế độ VNCH cũ, phải đi tù cải tạo, còn có cả
triệu người khác thoát thân bằng đường biển, với số người vùi thân nơi biển
sâu, tuy chưa có con số thống kê chính xác, nhưng theo ước lượng của cơ quan Hồng
Thập Tự Thế Giới, và cơ quan Cao Ủy Tị Nạn LQH, thì
không dưới nửa triệu người.
Cũng vì số đồng bào miền Nam liều chết, bỏ nước
ra đi đó mà lần đầu tiên lịch sử tị nạn thế giới có hai chữ “Boat People”
chỉ chung những người Việt Nam bỏ nước ra đi bằng thuyền bè, dù đến hay không đến
được bến bờ tự do. Đó là xét về phương diện chính trị với sự sắp xếp thỏa
thuận ngấm ngầm của các cường quốc trực tiếp hay
gián tiếp tham dự vào cuộc chiến miền Nam 20 năm. Về phương diện xã hội, tình
hình miền Nam vẫn chưa cho thấy một xáo trộn trầm trọng nào, nhất là tại Sài
Gòn hay những thành phố lớn.
Tôi nhớ Tết Nguyên Đán 1975 vẫn được dân chúng đón chào với tất cả tưng bừng,
hy vọng, cầu nguyện hạnh phúc, tốt lành đúng như truyền thống đã có từ bao
nhiêu ngàn năm của người Việt. Cũng thời gian này, ở phạm vi nghệ thuật Điện ảnh,
thì sau khi Asian Film Festival 1973 tổ chức tại Sài Gòn rất thành
công, kỹ nghệ Điện ảnh Việt Nam cũng bước qua thời kỳ non trẻ để cất cánh bay tới
những đỉnh cao.
Tôi muốn nói sự phát triển hay trưởng thành của điện ảnh Việt Nam ở thời điểm
này chính là sự ra đời dồn dập, liên tiếp của phim Việt Nam, do các nhà sản xuất,
đạo diễn, tài tử Việt Nam đảm trách. Tôi nhớ, giữa không khí phấn khởi, hầu hết
các rạp chiếu phim lớn nhỏ ở Sài Gòn đã hân hoan mở cửa chào đón sự vươn vai lớn
dậy của nền Điện ảnh Việt Nam thuở đó, cũng là thời kỳ tôi bận
rộn, sôi nổi nhất với nghề nghiệp chuyên môn của mình.
Sau hai phim tôi được mời đóng vai nữ chính của hai hãng phim Châu Á, quay ở
Thái Lan, thì từ cuối tháng 2 năm 1975, tôi đã có sẵn hợp đồng quay cuốn
phim Full House tại Singapore. Vì tháng 2/75, với tôi là tháng
mở đầu của một năm với quá nhiều công việc muốn làm, những cuốn phim đã nhận
đóng và những dự tính làm phim mới với Hoàng Vĩnh Lộc, người đạo diễn mà tôi rất
quý mến, chưa kể công việc liên quan tới gia đình, dự tính đi thăm các con đang
du học tại Toronto, Canada…
Mùng Một Tết Ất Mão nhằm ngày 11 tháng 2 năm 1975, vừa xong Tết và giỗ chạp với
gia đình, là cuộc họp mặt mừng Tết tại Alpha Films, với Hội Điện Ảnh Việt Nam.
Nhân dịp này, ông Thái Thúc Nha, chủ nhân Alpha Films, nhắc nhở tôi:
“Bà Chủ tịch phải sớm lo việc mời một số tài tử
ngoại quốc đến dự ‘Ngày Điện Ảnh Việt Nam kỳ VII’ vào tháng 8 năm 1975.”
Tất nhiên là tôi không lo gì được cho “Ngày Điện Ảnh Việt Nam kỳ VII” vào tháng
8 năm 1975 giản dị vì khi ấy miền Nam Việt Nam đã không còn nữa.
Từ nhà tù Singapore tới Toronto
Ngay khi máy bay đáp xuống phi trường Singapore, nơi tôi vừa rời đó đúng một tuần
lễ trước, tôi bị cảnh sát áp tải vào… nhà tù. Lý do, thông hành ngoại giao của tôi,
được cấp bởi một chính phủ bị coi là
không còn hiệu lực, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từ
chức. Trong nhà tù, lòng dạ rối bời, tôi ngồi co quắp qua đêm giữa
đủ loại người, sáng khi đi làm vệ sinh, tình cờ tôi thấy một người cai tù đang
đọc cuốn tạp chí Female, với hình bìa chính là tôi: Kiều Chinh. (Tờ
báo đăng bài viết và hình ảnh tôi được phỏng vấn sau khi quay xong phim Full
House.) Tôi mừng rỡ, nói với người cai tù rằng tôi chính là người phụ nữ
nơi trang bìa mà ông đang coi… Làm ơn giúp tôi, tôi cần gọi điện thoại. Ông ta
nhìn tôi, từ đầu đến chân, xong trở lại với tờ báo, mà không hề nói một lời.
Khi theo đoàn tù bước vào khu vực dành cho tù nhân rửa mặt, làm vệ sinh, nhìn
mình trong gương, tôi chợt hiểu lý do tại sao người cai tù kia không thể nào
liên tưởng tôi lúc này, một phụ nữ thất thần, tóc tai rũ rượi lại có thể là một
nữ tài tử với bức hình thật đẹp đăng trên trang bìa tờ Female Magazine nổi
tiếng của Singapore. Dù không có một phương tiện trang điểm nào trong
tay, tôi vẫn cố gắng vuốt tóc, sửa lại quần áo
cho ngay ngắn. Trở lại, một lần nữa, tôi năn nỉ người cai tù mở lại
trang center-fold của tờ tạp chí, sẽ thấy người trong hình
chính là tôi. Ông ta mở trang giữa của tờ báo, có thêm một tấm hình Kiều Chinh
rất lớn tràn cả hai trang, mặc áo dài Việt Nam trang trọng. Tới lúc này thì ông
ta nhận thấy rõ ràng người trong hình và người tù chính là một.
https://vietbao.com/images/file/VFCrIPgp2ggBACcP/w449/2f-singapore-jpg.jpg
Hình bìa tạp chí Female (Singapore), 21/4/1975.
Ông ta gật đầu cho phép tôi gọi điện thoại tới tòa đại sứ VNCH. Nhờ sự trợ giúp
tận tình của đoàn làm phim Full House cũng như của Đại sứ
Trương Bửu Điện, tôi được lãnh ra khỏi nhà tù, với điều kiện phải rời Singapore
trong vòng 48 tiếng. Suốt một ngày chạy đôn chạy đáo, với tình hình khi ấy của
miền Nam Việt Nam, không một tòa đại sứ của bất cứ quốc gia nào tại Singapore
chịu cấp giấy phép cho tôi nhập cảnh. Họ giải thích rằng Sài Gòn sẽ
thất thủ bất cứ lúc nào, và cách duy nhất trong tình cảnh ngặt nghèo
ấy là tôi lấy một vé máy bay, bay vòng vòng từ
Đông sang Tây, chờ Sài Gòn chính thức đổi chủ thì tôi mới có thể xin tị nạn
chính trị tại nơi nào mà máy bay đáp xuống.
Sau bốn ngày ba đêm sống vất vưởng giữa trời, từ Singapore, Bangkok, Hong Kong,
Korea, Tokyo, Paris, New York, Toronto… mà giữa các chuyến bay là những giây
phút khắc khoải chờ đợi, ở các phòng đợi phi trường, uống nước máy phông-tên,
ăn những mẩu bánh mì cũ để dành từ những bữa ăn trên máy bay, trong xách tay chỉ
còn vỏn vẹn vài chục dollar. Khi tới Tokyo tôi gọi điện thoại báo
tin cho chị Tĩnh biết giờ máy
bay sẽ tới phi trường Charles de Gaulle. Trong khi tôi bay trên trời mây
thì dưới đất chị Tĩnh ngồi trên chuyến xe lửa đi từ Marseille lên Paris.
Cuối cùng tại Paris, chúng tôi được nhìn thấy mặt nhau qua bức tường kính. Chị
ra dấu bảo tôi ra chỗ có điện thoại. Trên điện thoại, chị la lên: “Sài Gòn sắp
mất rồi. Em cứ ở đây chờ đừng đi tiếp nữa. Em đừng sợ, có chị và bác Nghị sẽ lo
cho em tất cả, rồi em sẽ đón các con sang đây…”
Tôi nhìn chị lắc đầu. Hai chị em áp tay trên tường kính, nước mắt trào ra. Tôi
không nghe lời khuyên của chị Tĩnh cứ ở lại Paris chờ tình hình miền Nam biến
chuyển rồi sẽ xin tị nạn. Tôi quay lưng lại chị tiếp tục leo lên những chuyến
bay kế tiếp…
Từ New York tôi gọi điện thoại cho các con ở Toronto.
Đúng 6 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, phi cơ đáp xuống phi trường Toronto,
ôm các con vào lòng, tim tôi thắt lại khi nghe tin Sài Gòn đã thất thủ.
Tôi trở thành người Việt tị nạn đầu tiên tại Toronto, Canada.
– Kiều Chinh
No comments:
Post a Comment