Đông Nam Á đang dần
trở nên xa lạ với Trung Quốc?
Trung Phi Đằng | Guancha
Lê
Thị Thanh Loan,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2024/05/30/dong-nam-a-dang-dan-tro-nen-xa-la-voi-trung-quoc/
Nhắc
đến Đông Nam Á, có lẽ đây là nơi mà người Trung Quốc quen thuộc nhất ngoài Đông
Á (thường là Đông Bắc Á theo nghĩa hẹp). Bên cạnh việc giao thương rất phát triển
với xứ Nam Dương từ thời cổ đại, người Trung Quốc cũng di cư đến Nam Dương với
quy mô lớn trong thời cận đại và hình thành nên xã hội người Hoa ở Đông Nam Á,
mối liên kết văn hóa tự nhiên này khiến Trung Quốc luôn cảm thấy Đông Nam Á
không hề khó hiểu. Trong những năm gần đây, một lượng lớn các doanh nghiệp
Trung Quốc đổ ra nước ngoài tìm kiếm cơ hội và Đông Nam Á, nơi có vị trí địa lý
gần gũi, đương nhiên trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu.
Vào
đầu năm nay, tôi đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt đến Đông Nam Á để tiến
hành nghiên cứu. Chủ đề nghiên cứu của tôi là tiến độ của chiến lược “Một vành
đai, một con đường” ở Đông Nam Á. Ngoài việc liên hệ với giới học thuật và các
viện nghiên cứu khoa học địa phương, tôi cũng tiến hành khảo sát thực tế về
tình hình đầu tư, xây dựng và vận hành của các doanh nghiệp Trung Quốc ở đây.
Tôi đã phát hiện ra một điều rằng, những thách thức mà các doanh nghiệp Trung
Quốc gặp phải ở Đông Nam Á thực ra không hề ít hơn so với bất kỳ khu vực nào
khác trên thế giới. Nguyên do là bởi, trong quá trình phát triển tại đây, các
doanh nghiệp Trung Quốc cũng bắt đầu gặp phải những thách thức về văn hóa và
chính trị tương tự như những gì mà doanh nghiệp của các nước phát triển từng gặp
phải trong quá khứ. Trong khi đó, khi điều kiện trong và ngoài nước bước vào một
giai đoạn mới với sự thay đổi mạnh mẽ, những kiến thức và cơ cấu mà chúng ta
tích lũy được trong thời gian qua là chưa đủ để đương đầu với những thách thức
mới nảy sinh trong thực tiễn.
Đối
với Trung Quốc, Đông Nam Á một lần nữa trở thành “kẻ xa lạ”.
Trong
những năm qua, tôi đã đến nhiều nước Đông Nam Á và hầu như lần nào tôi cũng nhận
thấy sự thay đổi lớn lao và những diện mạo đầy sống động ở đây, đặc biệt là ở
những quốc gia vốn có xuất phát điểm thấp và luôn duy trì một tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng trong suốt 10 năm qua như Việt Nam và Indonesia. Lần này,
chúng tôi lần lượt đến thăm Indonesia, Malaysia và Singapore. Điều thú vị là thứ
tự này cũng chính là cấp bậc xếp từ thấp đến cao của ba nước xét theo trình độ
phát triển kinh tế:
GDP
bình quân đầu người của Indonesia chưa đến 5.000 USD; của Malaysia là khoảng
12.000 USD, thuộc vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao; Singapore là nước
phát triển điển hình, GDP bình quân đầu người vượt quá 80.000 USD. Singapore đã
sớm được xếp vào hàng ngũ những nền kinh tế phát triển. Khi rảo bước trên các
con phố, ngõ hẻm của Singapore, ta khó có thể cảm nhận được sự chênh lệch quá lớn
về diện mạo kinh tế và xã hội ở đây. Danh tiếng của “Thành phố trong vườn” quả
là danh bất hư truyền.
Trong
khi đó, mặc dù đã nằm trong nhóm “Bốn con hổ châu Á” vào cuối thế kỷ trước
nhưng Malaysia đã không thể bứt phá trong 10 năm sau đó và thường bị coi là trường
hợp rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
Là
quốc gia đông dân nhất Đông Nam Á, Indonesia duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng trong những năm gần đây. Tôi đặc biệt quan tâm đến Indonesia, không
chỉ vì Indonesia đang trong giai đoạn phát triển nhanh chóng mà còn bởi quốc
gia này thể hiện cốt lõi tinh thần của văn hóa chính trị ở Đông Nam Á.
1. Vượt khỏi mô hình đàn
nhạn bay: Sự thăng hoa của chuỗi giá trị Đông Nam Á
Trong
những năm gần đây, Đông Nam Á nhận được rất nhiều sự quan tâm. Do xung đột
thương mại Mỹ-Trung Quốc và nhu cầu về chuỗi cung ứng “giảm rủi ro” sau đại dịch
COVID-19, Đông Nam Á đã trở thành điểm đến được nhiều quốc gia ưa chuộng trong
việc chuyển giao sản xuất và cạnh tranh. Đối với Trung Quốc và Mỹ, Đông Nam Á
là “trạm trung chuyển” tương đối lý tưởng. Bởi vậy, sau năm 2018, một lượng lớn
năng lực sản xuất của Trung Quốc đã được chuyển sang Đông Nam Á. Hàng hóa
trung gian, tức là thương mại giá trị gia tăng dựa trên chuỗi giá trị, đặc biệt
phát triển và hình thành nên mô hình “tam giác thương mại” tinh vi hơn.
Trước
đây, người ta thường dùng “mô hình đàn nhạn bay” kinh điển để giải thích hiện
tượng chuyển giao và nâng cấp công nghiệp giữa các quốc gia châu Á. Mô hình này
được đề xuất từ rất sớm, nó đã liên tục được sửa đổi trong vài thập kỷ qua và
có khả năng giải thích tương đối phổ quát. Tuy vậy, mô hình đàn nhạn bay không
thể giải thích một cách đầy đủ về hợp tác năng lực sản xuất giữa Trung Quốc và
Đông Nam Á hiện nay. Để hiểu rõ điều này, trước tiên chúng ta hãy cùng nhìn lại
quá trình phát triển của mô hình thương mại của khu vực Đông Nam Á.
Mô
hình đàn nhạn bay được đề xuất dựa trên thương mại liên khu vực ở Đông Nam Á, đối
với nguồn gốc của mô hình này, ta có thể truy ngược về lý thuyết phát triển
kinh tế do nhà kinh tế học người Nhật Akamatsu Kaname đề xuất trong Chiến tranh
Thái Bình Dương. Vào những năm 1960 và 1970, qua sự tổng hợp và phát triển của
Kiyoshi Kojima – học trò của Akamatsu Kaname, mô hình đàn nhạn bay mà chúng ta
quen thuộc ngày nay đã được hình thành, trong đó Nhật Bản là con nhạn đầu đàn,
sự phát triển kinh tế khu vực được thực hiện thông qua chuyển dịch độ dốc công
nghiệp: Đầu tiên là Bốn con hổ châu Á, sau đó là Bốn con hổ nhỏ, Trung Quốc… Điều
khiến mô hình này nổi tiếng không phải chỉ nhờ sự đóng góp của các nhà kinh tế
học.
Trên
thực tế, nhiều nhà kinh tế học thế hệ cũ vẫn còn nhớ, vào năm 1985, Saburo
Okita – cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản, từng tuyên bố trong một bài phát
biểu tại Seoul, Hàn Quốc rằng Nhật Bản đã thiết lập một mô hình phân công lao động
khác với mô hình của Mỹ. Đúng vào lúc chính phủ Nhật Bản đang nỗ lực tuyên truyền
mô hình này, Mỹ đã gây áp lực lên các đồng minh và đạt được “Hiệp định Plaza” nổi
tiếng. Dưới áp lực của việc giá đồng Yên tăng cao, các công ty Nhật Bản buộc phải
“vươn ra toàn cầu” trên một quy mô lớn. Đối với nền kinh tế châu Á, đây là một
sự chuyển đổi mang tính bước ngoặt. Tác động của cuộc xung đột thương mại Mỹ-Trung
đối với nền kinh tế châu Á vào năm 2018 cũng rất giống với điều này.
Thắng
cũng vậy mà bại cũng vậy. Thành công của nền kinh tế Nhật Bản đã gieo mầm cho sự
thất bại của nước này, Mỹ sẽ không chấp nhận sự thống trị của Nhật Bản trong sự
phát triển kinh tế của khu vực. Với tư cách là thị trường tiêu dùng lớn nhất, Mỹ
có đủ khả năng thay đổi các quy tắc kinh tế và thương mại, với biểu hiện tập
trung nhất là việc thành lập WTO. Bằng cách cho phép các nước khác gia nhập WTO
và từ đó tuân theo các quy tắc được phát triển dưới sự lãnh đạo của mình, Mỹ đã
loại Nhật Bản khỏi quyền hoạch định quy tắc.
Nhìn
vào sự trỗi dậy của bá quyền Mỹ, các nhà kinh tế học Nhật Bản không thể không ý
thức được rằng, quyền lực vẫn rất quan trọng đối với thương mại quốc tế. Cuốn
sách Sự trỗi dậy của châu Á (The Rise of Asia) xuất bản năm
2009 của Terutomo Ozawa đã giải thích lý do tại sao sự trỗi dậy về kinh tế của
châu Á chính là kết quả của “cụm tăng trưởng do Mỹ dẫn đầu”, đồng thời thừa nhận
rằng, kẻ dẫn đầu mô hình đàn nhạn bay không phải Nhật Bản, mà là Mỹ.
Một
biểu hiện về vị thế của Mỹ là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông
tin (IT). Do sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm giảm đáng kể chi phí
liên lạc và điều phối, chuỗi phân công lao động đã ngày càng được hoàn thiện và
củng cố, mô hình thương mại của châu Á bắt đầu trải qua những thay đổi mang
tính cách mạng và mở đường cho sự xuất hiện của hình thức thương mại mới. Biểu
hiện nổi bật nhất là việc thương mại hàng hóa trung gian, chứ không phải hàng
hóa thành phẩm, đã trở thành xu thế chủ đạo và một lượng lớn hàng hóa thông
quan giữa các nước là hàng hóa linh kiện. Trên thực tế, thương mại linh kiện có
lợi hơn cho các nước vừa và nhỏ tham gia vào chuỗi công nghiệp, bởi một quốc
gia với một hệ thống công nghiệp chưa hoàn chỉnh khó có thể hoàn thiện tất cả
các công đoạn sản xuất của một sản phẩm. Với sự phát triển của thương mại nội
ngành, các nước Đông Nam Á cũng bắt đầu nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô
và xuất đi các sản phẩm chế tạo. Sản phẩm máy móc, công nghệ thông tin và đồ điện
đã trở thành ngành sản xuất cốt lõi trong chuỗi giá trị thương mại.
Sau
khi chiến lược “Một vành đai, Một con đường” được đề xuất, thương mại và đầu tư
của Trung Quốc ở Đông Nam Á đã phát triển nhanh chóng, mô hình của nước này
cũng thể hiện sự kết hợp giữa các yếu tố cũ và mới. Theo mô hình đàn nhạn bay,
đầu tư của Nhật Bản vào Đông Nam Á là đầu tư mang tính chất thúc đẩy thương mại,
tức là tập trung vào các ngành công nghiệp trung bình và cấp thấp, cung cấp
nguyên liệu thô và tiến hành gia công thô tại địa phương rồi vận chuyển về Nhật
Bản để sản xuất các sản phẩm cao cấp hơn sau đó xuất sang Mỹ, bởi vậy, xuất khẩu
của Nhật Bản gần như không bị ảnh hưởng. Ngược lại, đầu tư của Mỹ là thương mại
kiểu thay thế. Các doanh nghiệp Mỹ thường có xu hướng đầu tư tại địa phương và
bán hàng tại địa phương, từ đó thay thế nhu cầu ban đầu của địa phương đối với
việc nhập khẩu hàng hóa của Mỹ.
Mô
hình của Trung Quốc có thể là sự kết hợp của một vài yếu tố của cả Mỹ và Nhật Bản:
Từ góc độ tiếp nối, sự chuyển dịch công nghiệp của Trung Quốc sang Đông Nam Á
có điểm phù hợp với mô hình đàn nhạn bay và đã phát triển hơn nữa mạng lưới
phân công lao động dựa trên giá trị gia tăng thương mại. Từ các khía cạnh khác
nhau, đầu tư của Nhật Bản phân bổ rộng rãi về mặt địa lý và có xu hướng tập
trung vào các ngành công nghiệp trung bình và cấp thấp, còn đầu tư trực tiếp của
Mỹ vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương tập trung nhiều vào Singapore (hơn một nửa)
và có xu hướng đổ vào các ngành công nghệ thông tin và tài chính. Trong khi đó,
hợp tác đầu tư, kinh tế và thương mại của Trung Quốc ở Đông Nam Á hiện nay mang
tính toàn diện, không chỉ bao gồm cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và tài nguyên nước
mà còn gồm cả hợp tác công nghiệp ở nhiều cấp độ phát triển khác nhau, chẳng hạn
như các khu công nghiệp.
Ví
von một cách đơn giản, Trung Quốc cung cấp các kế hoạch hợp tác theo “kiểu thực
đơn” và các nước có thể lựa chọn tùy theo trình độ và nhu cầu phát triển của
mình. Và kết quả của điều này là sự kết hợp giữa xúc tiến và chuyển giao thương
mại, dẫn đến hướng xuất khẩu rộng lớn hơn cho các nước Đông Nam Á. Lấy Việt Nam
làm ví dụ, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn thứ bảy vào Mỹ trong suốt 4
hay 5 năm qua, mà xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc cũng đang tăng trưởng
nhanh chóng. Hiện tượng xuất khẩu ở cả hai đầu này phản ánh vị thế mới của Đông
Nam Á với tư cách là “trạm trung chuyển” của nền thương mại thế giới.
Điều
cần đặc biệt chỉ ra là, sự chuyển giao công nghiệp của Trung Quốc sang Đông Nam
Á đã xuất hiện một yếu tố mới mà các nước phát triển hiếm khi nào có được trong
quá trình chuyển giao công nghiệp cho các nước đang phát triển trước đây, đó là
hợp tác năng lực. Lý thuyết đầu tư của phương Tây cho rằng, việc các công ty đa
quốc gia đầu tư ra nước ngoài và bản địa hóa các hoạt động kinh doanh ở các nước
đang phát triển có thể giúp phát triển năng lực công nghiệp của địa phương đó.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển rất khó có được bí quyết kỹ thuật và năng lực
quản lý của các nhà máy này. Vì vậy, trong thời đại Mỹ dẫn dắt các tập đoàn đa
quốc gia, đã có không ít xung đột nảy sinh giữa các tập đoàn đa quốc gia với
các nước đang phát triển. Nỗ lực của các nước đang phát triển trong việc có được
những tài sản này chính là khởi nguồn cho cái mà chúng ta thường được nghe về
những rủi ro trong kinh doanh xuyên quốc gia, chẳng hạn như việc “tước quyền sở
hữu”.
Chiến
lược “Một vành đai, Một con đường” là biện pháp mới nhất nhằm thúc đẩy sự phát
triển của các nước có thu nhập thấp và trung bình thông qua hợp tác năng lực ở
quy mô lớn. Với tư cách là một nước đang phát triển đã đạt được mức GDP bình
quân đầu người vượt quá 10.000 USD mà không tốn quá nhiều thời gian, Trung Quốc
sở hữu những kinh nghiệm mới mẻ về công nghiệp hóa ở quy mô lớn, cũng như một
lượng lớn công nhân và nhân tài trong kinh doanh, quản lý. Điều này rất khác so
với phương Tây, nơi mà những ký ức về quá trình công nghiệp hóa chỉ có thể được
tìm thấy trong các viện bảo tàng và sách báo ở thư viện.
Trong
quá trình dẫn đầu các nước dọc tuyến tham gia xây dựng “Một vành đai, Một con
đường”, Trung Quốc không chỉ chuyển giao các công nghệ liên quan mà còn cùng
các bên tiến hành đàm phán và thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ, trong
quá trình xây dựng tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào, Trung Quốc đã giúp Lào đào tạo
nhiều công nhân kỹ thuật để họ có thể tự vận hành. Tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào
không hoàn toàn dập khuôn theo mô hình vận hành của đường sắt cao tốc Trung Quốc,
mà đã được xem xét dựa trên các yếu tố địa lý và lợi ích kinh tế của địa
phương, tốc độ tối đa của thiết kế cuối cùng không vượt quá 160 km/h. Vì những
lý do này, người Đông Nam Á có xu hướng thể hiện thái độ tích cực khi đánh giá
sự hiện diện kinh tế của Trung Quốc trong khu vực.
Các
lý thuyết giải thích về thương mại và đầu tư quốc tế phổ biến hiện nay đều xuất
phát từ kinh nghiệm của các nước phát triển như Nhật Bản và Mỹ. Hiện vẫn chưa
có một lý thuyết “thân thuộc quen tai” nào giải thích được mô hình đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc. Từ góc độ của cộng đồng học thuật quốc tế,
về cơ bản thì các nghiên cứu quy mô lớn về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
Trung Quốc bắt đầu được thực hiện sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, tính đến nay mới được 15 năm. Về cơ bản, nó vẫn đang quay vòng trong giới
học thuật và sẽ phải mất một thời gian nữa để các luận điểm liên quan có thể
tác động đến giới chính sách và giới kinh doanh.
Đối
với các học giả Trung Quốc, Đông Nam Á là một hình mẫu tuyệt vời để hiểu về mô
hình đầu tư của Trung Quốc, bởi không khu vực nào có quan hệ kinh tế và thương
mại gần gũi với Trung Quốc như Đông Nam Á. ASEAN và Trung Quốc là đối tác
thương mại lớn nhất của nhau, ngoài ra Trung Quốc cũng đã trở thành nguồn đầu
tư lớn thứ ba của ASEAN. Mặc dù vẫn còn khoảng cách nhất định so với Mỹ và Nhật
Bản, tuy nhiên Trung Quốc đang tiến hành đầu tư ra nước ngoài trong bối cảnh thời
đại mới, dù là xét về trình độ phát triển kinh tế, tiến bộ công nghệ hay trò
chơi địa chính trị, thì đều đã có những khác biệt rất lớn so với thời kỳ mà Mỹ
dẫn đầu.
Nếu
mô hình đàn nhạn bay đã không còn đủ để mô tả các phương thức và tác động của
vòng hợp tác năng lực sản xuất hiện nay của Trung Quốc, vậy thì chúng ta nên định
vị vị thế của Trung Quốc trong mạng lưới sản xuất của châu Á ra sao? Liệu Trung
Quốc có thể chuyển đổi từ “công xưởng thế giới” thành “thị trường thế giới” và
xây dựng một vòng tuần hoàn bên ngoài bền vững hơn? Trong bối cảnh thực tiễn đặc
biệt này, lý thuyết đảm nhận nhiệm vụ quan trọng là tìm hiểu thực tế, nghiên cứu
và phán đoán con đường tương lai.
Nhìn
từ góc độ lịch sử lâu dài hơn, việc sức mạnh kinh tế của Trung Quốc tái gia nhập
Đông Nam Á là một sự kiện đáng chú ý. Giáo sư Vương Canh Vũ của Singapore từng
nói, kể từ khi Trịnh Hòa thời nhà Minh thám hiểm Tây Dương, quyền lực của người
Trung Quốc trong khu vực đã bị thay thế bởi các thế lực thực dân phương Tây.
Khi tôi trao đổi với người đứng đầu một viện nghiên cứu ở Indonesia, đối phương
đã đưa ra ý kiến rằng: “Nhật Bản là hiện tại, còn Trung Quốc là tương lai.”
Đông Nam Á có thể quen thuộc với Trung Quốc trong lịch sử, nhưng có lẽ họ chưa
hiểu đủ về nền kinh tế đang hồi sinh của Trung Quốc ngày nay. Trong bối cảnh
đó, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến việc bản địa hóa sau khi tiến vào Đông Nam
Á.
2.
Những thách thức của giao tiếp đa văn hóa
Ngay
từ đầu, tôi đã nhấn mạnh rằng, Đông Nam Á là một “kẻ xa lạ quen thuộc” đối với
chúng ta. Cảm giác xa lạ này được tạo ra trong bối cảnh tương đối của các thời
đại khác nhau. Trung Quốc không thiếu những nghiên cứu hữu ích về Đông Nam Á.
Ví dụ, trong lĩnh vực nghiên cứu của tôi, Giáo sư Vương Chính Nghị của Đại học
Bắc Kinh đã từng truyền cho tôi nguồn cảm hứng lớn qua cuốn sách Lý
thuyết phát triển vùng cận biên: Hệ thống thế giới và sự phát triển của Đông
Nam Á xuất bản vào những năm 1990. Lấy lý thuyết hệ thống thế giới của
Immanuel Wallerstein làm nền tảng, ông nghiên cứu xem liệu sự phát triển của
Đông Nam Á có thể tách rời khỏi thế giới tư bản chủ nghĩa hay không. Kết luận
nghiên cứu của ông là không thể tách rời. Kết luận này vẫn đúng cho đến ngày
nay.
Ngoài
ra, trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, cũng có nhiều nghiên cứu thảo luận về tác động
của các yếu tố hệ thống quốc tế đối với các nước vừa và nhỏ. Những nghiên cứu
này rất hữu ích trong việc tìm hiểu hành vi và quá trình ra quyết định của các
nước Đông Nam Á. Ví dụ, có một cách nói phổ biến mà tôi đã được nghe khi đi du
lịch ở Đông Nam Á, đó là không được đắc tội với Mỹ vì Mỹ vẫn là “anh cả” của hệ
thống quốc tế.
Tuy
nhiên, sau khi đến thăm nhiều dự án thuộc “Một vành đai, Một con đường”, chúng
tôi phát hiện ra những lỗ hổng mới trong kiến thức của mình. Nó phát sinh từ
vai trò đang thay đổi của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Thứ nhất là mối quan hệ kinh
tế sâu sắc được phát triển bên ngoài quan hệ chính trị và ngoại giao truyền thống,
thứ hai là sự chuyển đổi mô hình quan hệ kinh tế từ ngoại thương sang đầu tư.
Trong mô hình ngoại thương thuần túy, việc bán hàng được thực hiện thông qua
các đại lý trong nước, mua và bán là hai khâu tách biệt, không cần phải biết
quá nhiều về tình hình trong nước của nước đối tác thương mại. Trong khi đó, đối
với đầu tư, bạn sẽ gặp phải muôn vàn vấn đề về pháp lý, xã hội và văn hóa khác
nhau, điều mà chúng tôi thường gọi là vấn đề “bản địa hóa”.
Điều
này đã khiến nhu cầu kiến thức về Đông Nam Á của chúng ta chuyển từ sự hiểu biết
vĩ mô mang tính tổng thể và nguyên lý sang những nghiên cứu có hướng tiếp cận
mang tính khu vực và quốc gia hơn, cũng như chú ý nhiều hơn đến chính trị, kinh
tế và văn hóa địa phương. Nói cách khác, nếu sự phát triển của các chuyên ngành
quan hệ quốc tế trước đây chủ yếu nhằm giải quyết nhiệm vụ thiết lập mối quan hệ
bình thường giữa Trung Quốc với các nước khác ở cấp độ quốc gia, thì thách thức
tiếp theo là phải phát triển một số chuyên ngành mới, chẳng hạn như chuyên
ngành về khu vực và quốc gia, để tìm hiểu về sự phát triển chính trị, kinh tế
và văn hóa của nước sở tại, qua đó củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của
các doanh nghiệp Trung Quốc tại địa phương. Đây là điều vô cùng quan trọng.
Khi
nói đến đầu tư của Trung Quốc vào các dự án ở Đông Nam Á, giao tiếp đa văn hóa
là một thách thức đặc biệt nổi bật. Điểm trực quan nhất được thể hiện ở vấn đề
quản lý lao động. Do lợi thế về giá của lao động Đông Nam Á và các quy định về
vấn đề bản địa hóa của một số quốc gia, các doanh nghiệp Trung Quốc xây dựng
nhà máy ở đó sẽ thuê một lượng lớn lao động bản địa. Tính đa nguyên về văn hóa
và xã hội ở Đông Nam Á vượt quá sức tưởng tượng và tính đa nguyên này sẽ thâm
nhập vào mọi khía cạnh của quản lý doanh nghiệp.
Ví
dụ, Malaysia và Indonesia đều là những quốc gia Hồi giáo nên yếu tố tôn giáo
tín ngưỡng cần được xem xét trong quản lý. Ngoài ra, quan niệm lao động của người
Đông Nam Á cũng khác so với người Trung Quốc và không phải xã hội nào cũng coi
phát triển là ưu tiên hàng đầu. Ở Đông Nam Á, tư duy kinh tế chủ nghĩa không hề
chiếm ưu thế. Việc coi phát triển kinh tế là mục tiêu giá trị quan trọng nhất,
hay làm việc đúng giờ, làm thêm giờ và làm việc liên tục chưa chắc đã là đạo lý
hiển nhiên của người dân địa phương. Chúng ta không thể chuyển đến nơi này các
khái niệm về kỷ luật lao động được hình thành trong nền văn minh Nho giáo Đông
Á hay các xã hội công nghiệp phát triển khác.
Không
dễ để các doanh nghiệp Trung Quốc bén rễ ở Đông Nam Á. Trong cuộc khảo sát này,
tôi cũng tìm hiểu về tình hình của các doanh nghiệp Nhật Bản và Hàn Quốc đã đầu
tư vào Đông Nam Á sớm hơn Trung Quốc từ một đến hai thế hệ, độ thâm nhập của họ
sâu hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp Trung Quốc. Chúng ta có thể thấy quảng
cáo từ các công ty lớn như Huawei ở các thành phố lớn như Jakarta, nhưng rất
khó tìm thấy dấu vết của các thương hiệu Trung Quốc ở các thành phố hạng hai và
hạng ba như Bandung và Yogyakarta. Các doanh nghiệp Nhật Bản và Hàn Quốc này đã
hoạt động ở Đông Nam Á từ lâu và thậm chí đã có thế hệ người địa phương thứ hai
hay thứ ba làm việc cho họ.
Điều
này cũng cho chúng ta thấy rằng, với tư cách là những người đến sau, các doanh
nghiệp Trung Quốc khó có thể đạt được sự phát triển nhảy vọt tại địa phương và
phải dựa vào sự trao đổi đa văn hóa lâu dài để tích lũy niềm tin lẫn nhau. Tất
nhiên, việc các doanh nghiệp phân bố ở những thành phố khác nhau cũng liên quan
đến ngành và chiến lược thị trường của doanh nghiệp đó. Nhìn chung, Đông Nam Á
mang đặc trưng “đô thị hóa”, tức là các thành phố lớn cung cấp nhiều cơ hội việc
làm, thu hút giới trẻ từ khắp nơi trên cả nước, tiêu dùng rất phát triển, khu vực
tiêu dùng từ trung cấp đến cao cấp gần giống như ở các đô thị khác trên thế giới.
Ở thời kỳ đầu, các doanh nghiệp Trung Quốc dễ dàng tiếp cận các thị trường này
hơn. Tuy nhiên, các thành phố cấp hai và cấp ba mang tính bản địa cao hơn và việc
thâm nhập vào các thị trường này đòi hỏi thời gian và chi phí thông tin rất lớn.
Lần
này, tôi đặc biệt đến thăm văn phòng của Tổ chức thúc đẩy Ngoại thương Nhật Bản
(JETRO) tại Malaysia. Họ đã thu thập rất nhiều thông tin về các quốc gia Đông
Nam Á. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, hoạt động của Nhật Bản ở Đông Nam Á
là rất bền vững. JETRO có 27 văn phòng ở châu Á, nhiều hơn cả châu Âu và Bắc Mỹ
cộng lại. Nhật Bản có thông tin nghiên cứu cực kỳ chi tiết về thị trường địa
phương, bao gồm mức lương ở các thành phố và các cấp quản lý khác nhau, cũng
như những vấn đề chủ yếu mà doanh nghiệp phải đối mặt ở các quốc gia khác nhau.
Hãy
lấy dữ liệu khảo sát về 7 quốc gia ASEAN mà JETRO đã công bố vào năm 2023 làm
ví dụ. Từ góc nhìn của các doanh nghiệp Nhật Bản, giữa các nước Đông Nam Á tồn
tại một sự khác biệt khá lớn về lợi thế bản địa, Singapore chủ yếu là về sự ổn
định chính trị xã hội, Indonesia và Việt Nam là về quy mô thị trường và tiềm
năng phát triển, còn Thái Lan chủ yếu là về môi trường sống tốt đẹp cho người
nước ngoài. Ở góc độ rủi ro, Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia chủ yếu
là do chi phí lao động, trong khi Việt Nam và Philippines là do chi phí hành
chính cao. Về chi phí lao động ở Đông Nam Á, JETRO cũng tiến hành khảo sát chi
tiết ở nhiều vị trí khác nhau.
Trong
ngành chế tạo ở các nước Đông Nam Á, lương của nhân viên quản lý và người vận
hành máy móc tương đối chênh lệch và mức độ khác biệt cũng không giống nhau giữa
các quốc gia. Ví dụ, các quản lý ở Singapore có thể nhận được khoảng 30.000
nhân dân tệ mỗi tháng, nhưng ở Indonesia thì chỉ là 7.000 nhân dân tệ và khoảng
11.000 nhân dân tệ ở Malaysia. Đối với người vận hành máy móc, mức lương ở
Singapore là gần 14.000 nhân dân tệ, nhưng ở Việt Nam là dưới 2.100 nhân dân tệ,
ở Indonesia là dưới 2.800 nhân dân tệ và ở Malaysia là dưới 3.500 nhân dân tệ.
Nói chung, ngoại trừ Singapore, Đông Nam Á vẫn có lợi thế đáng kể về mức lương
thấp trong ngành chế tạo.
Cộng
đồng người Hoa ở Singapore, Malaysia và Indonesia rất phát triển. Điều này khiến
chúng ta hiểu lầm rằng đây là lợi thế cho việc bản địa hóa các doanh nghiệp
Trung Quốc. Khi thực hiện nghiên cứu ở Malaysia vài năm trước, tôi đã tham gia
một hội nghị chuyên đề có sự tham dự của Công hội người Hoa Malaysia, Đảng MCA.
Họ đã cung cấp một tài liệu khảo sát và có một số kết luận đã nằm ngoài dự đoán
của tôi. Tài liệu này cho thấy, nhóm sắc tộc Malaysia phản đối việc các doanh
nghiệp Trung Quốc hoạt động tại địa phương một cách mạnh mẽ nhất lại chính là
người Malaysia gốc Hoa.
Tuy
nhiên, sự phản đối này không phải là sự phản đối giữa các quốc gia. Lý do đằng
sau nó vốn chẳng liên quan gì đến những nguyên do chính trị như ý thức hệ: Do
người Hoa có thói quen sinh hoạt và ăn uống tương tự nhau nên những người Trung
Quốc đến Malaysia làm việc đều sẵn sàng sống trong các khu vực của cộng đồng
người Hoa, từ đó dẫn đến việc gián tiếp làm cho vật giá và giá nhà tăng cao, điều
này đã làm gián đoạn cuộc sống của cộng đồng người Hoa tại địa phương. Những
mâu thuẫn nảy sinh từ đây giống với những “tranh chấp xóm giềng” trong cuộc sống
hơn.
Những
mâu thuẫn này có thể được giải quyết thông qua nghiên cứu và đàm phán. Hiện
nay, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đề xuất việc phải quy hoạch tổng thể các
công trình mang tính biểu tượng và các dự án “nhỏ mà đẹp”, một trong những
cân nhắc quan trọng trong đó là đạt được sự gắn kết lòng dân bằng cách phát huy
một cách đầy đủ vai trò trao đổi đa văn hóa của các dự án “nhỏ mà đẹp” và mang
lại lợi ích cho người dân địa phương. Các công trình mang tính biểu tượng thường
có quy mô lớn và tốn nhiều thời gian, Trung Quốc hiện đang thâm nhập sâu vào
Đông Nam Á và cần những dự án tinh vi hơn.
Trong
quá trình hoạt động ở Đông Nam Á, một nhầm tưởng khác của các doanh nghiệp
Trung Quốc là dập khuôn theo tư duy quản lý dự án trong nước. Nhiều doanh nghiệp
chưa quen với hệ sinh thái chính trị của các nước Đông Nam Á, họ đã quen với việc
tìm đến những “quan lớn” để giải quyết mọi vấn đề, tuy nhiên, trong chế độ bầu
cử, đảng phái chính trị của các quan chức thường thay đổi định kỳ.
Ngoài
ra, ở Đông Nam Á, nơi quyền lực được phân chia và các tổ chức xã hội phát triển,
các tiêu chuẩn để đo lường xem ai là người có sức ảnh hưởng cũng khác nhau. Đối
với những sự việc khác nhau, mức độ ảnh hưởng của các cơ cấu khác nhau cũng
không giống nhau. Nếu không có nghiên cứu chuyên sâu tại chỗ thì rất khó có thể
tìm ra giải pháp cho các vấn đề cụ thể trong các mối quan hệ phức tạp.
Trong
một cuộc phỏng vấn ở Singapore, tôi đã được nghe một câu nói để lại trong tôi ấn
tượng sâu sắc. Một chuyên gia địa phương nói với tôi rằng, vấn đề của các doanh
nghiệp Trung Quốc không chỉ là họ không chú ý đến tầng lớp quần chúng ở địa
phương, mà đôi khi ngay cả giới tinh anh là ai họ cũng chẳng rõ. Nếu không có sự
kết nối sâu sắc ở địa phương, cũng như không tiến hành nghiên cứu liên tục về
kinh tế, chính trị và văn hóa địa phương thì khó có thể nắm rõ tình hình của địa
phương đó theo nhu cầu của riêng mình.
Điều
này dẫn đến một vấn đề: Đối với các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài, chỉ
trang bị những nhân tài về kinh tế là chưa đủ, mà còn cần phải có những nhân
tài chuyên về quản lý đa văn hóa. Một khi dự án được triển khai, doanh nghiệp
chắc chắn sẽ phải thâm nhập sâu vào tiến trình kinh tế chính trị của địa
phương. Các doanh nghiệp Trung Quốc chỉ mới hoạt động ở nước ngoài trong một thời
gian tương đối ngắn và rất thiếu nguồn nhân lực chuyên môn có thể giải quyết vấn
đề bản địa hóa này.
Trong
vấn đề này, với tư cách là một trong những quốc gia đầu tư vào Đông Nam Á, Nhật
Bản có kinh nghiệm xử lý các hoạt động trao đổi đa văn hóa rất đáng để chúng ta
tham khảo. Trong thời gian học tập ở Nhật Bản, tôi phát hiện ra rằng, nhiều trường
đại học ở Nhật Bản đã thiết kế các chuyên ngành kinh tế quốc tế, chính trị quốc
tế và văn hóa quốc tế trong các khoa viện liên quan đến quan hệ quốc tế. Nơi
tôi theo học lúc đó là Khoa Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình Dương của Đại học
Waseda, Nhật Bản, đã lập ra chuyên ngành văn hóa quốc tế. Mục đích ban đầu của
chuyên ngành văn hóa quốc tế hay giao lưu đa văn hóa thực chất là để giải quyết
những thách thức đa văn hóa mà các doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải khi đầu tư ra
nước ngoài.
Tôi
kiến nghị các doanh nghiệp Trung Quốc ở nước ngoài nên điều chỉnh cơ cấu quản
trị doanh nghiệp và cơ cấu nhân tài, đồng thời tuyển dụng thêm nhân tài ở các
chuyên ngành phi kinh tế khác nhau như nghiên cứu khu vực và quốc gia, chính trị
học so sánh, nhân học, xã hội học…, để điều phối các vấn đề đa văn hóa này.
3.
Ý nghĩa của làn sóng xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á
Xây
dựng cơ sở hạ tầng giao thông ở Đông Nam Á là chủ đề mà tôi đã quan tâm từ lâu.
Lần này khi đến thăm Indonesia, tôi đã đi khảo sát tuyến đường sắt cao tốc
Jakarta-Bandung mới được khai trương vào năm ngoái. Đây là tuyến đường sắt cao
tốc đầu tiên ở Đông Nam Á được hoàn thành và thông xe, đồng thời cũng là một
công trình mang tính biểu tượng nằm trong chiến lược “Một vành đai, Một con đường”.
Nó giúp giảm thiểu thời gian di chuyển từ Jakarta đến Bandung từ ba giờ xuống
còn chưa đầy một giờ. Điều này có nghĩa, sẽ hoàn toàn không phải vấn đề nếu sau
bữa trưa ở Jakarta, bạn ngồi tàu cao tốc đến Bandung rồi lại thong thả trở về.
Người Trung Quốc chắc chắn không xa lạ gì với thành phố Bandung. Cách đây gần
70 năm, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tham dự Hội nghị Á-Phi nổi tiếng tại đây và đề
xuất Năm nguyên tắc chung sống hòa bình “tìm kiếm điểm chung trong khi bảo lưu
những khác biệt”, di tích của hội nghị này hiện vẫn còn được bảo tồn tại địa
phương. Nói cách khác, tuyến cao tốc từ Jakarta đến Bandung, có một đầu nối với
một thành phố hiện đại nổi tiếng thế giới, còn một đầu nối với thành phố cổ có
tác động sâu sắc đến hợp tác Nam-Nam và sự trỗi dậy của các nước đang phát triển.
Bản thân sự kết nối giữa hai đầu này mang tính biểu tượng rất cao.
Khoảng
cách từ Jakarta đến Bandung chỉ hơn 100 km, nhưng ga đường sắt cao tốc nối hai
nơi này còn cách trung tâm thành phố một khoảng nhất định nữa. Nếu xét đến điều
kiện giao thông ở Jakarta và dựa trên kinh nghiệm ngồi tàu thực tế thì thời
gian tiết kiệm được từ việc sử dụng đường sắt cao tốc không phải là quá nhiều,
trong khi giá vé tàu vẫn tương đối cao đối với những người Indonesia vốn có mức
thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng 1/3 Trung Quốc. Vào thời điểm chúng tôi đến
thăm, chính phủ Indonesia đã phát động chiến dịch giảm giá và vé tàu có mức giá
thấp hơn bình thường. Mặc dù dòng người ở đây khó có thể so sánh với lượng người
sử dụng đường sắt cao tốc của Trung Quốc, nhưng chúng tôi vẫn có thể cảm nhận
được sự nhiệt tình của người dân địa phương đối với việc ngồi tàu cao tốc và
nơi đây đã trở thành địa điểm check-in nổi tiếng trên mạng.
Trên
đường đi, tôi nghĩ đến một câu hỏi: Tại sao Indonesia lại muốn xây dựng đường sắt
cao tốc? Câu trả lời là, có lẽ là bởi nhu cầu của Indonesia trong việc phục
hưng đất nước cũng như khẳng định bản thân với tư cách là một cường quốc trong
khu vực.
Ở
Indonesia, tuyến đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung là một “dự án quốc gia” rất
xứng tầm và ý nghĩa biểu tượng của nó vượt xa những cân nhắc giản đơn về kinh tế.
Một cường quốc đang trỗi dậy cần một biểu tượng của sự hiện đại hóa để truyền cảm
hứng cho niềm tự hào dân tộc và tinh thần phấn đấu. Chúng tôi đã nói chuyện với
giới trẻ ở địa phương. Niềm tự hào hiện trên khuôn mặt họ khi chứng kiến đường
sắt cao tốc được xây dựng trên đất nước mình là điều rất quen thuộc với người
Trung Quốc.
GDP
bình quân đầu người của Indonesia vào năm 2022 thực ra không khác nhiều so với
GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vào năm 2007. Việc xây dựng đường sắt
cao tốc ở Trung Quốc cũng tăng trưởng nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay của Indonesia là khoảng
5%/năm, thấp hơn một chút so với tốc độ tăng trưởng 7% của các nước Đông Dương,
nhưng vẫn cao hơn đáng kể so với mức trung bình thế giới là 3%. Các dự án đường
sắt cao tốc ở nước ngoài, mà tiêu biểu là tuyến đường sắt cao tốc
Jakarta-Bandung, là điểm sáng trong sự cạnh tranh của Trung Quốc trên thị trường
quốc tế.
Nhìn
từ lập trường của Trung Quốc, nước này sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các nước
đang phát triển khác về thành công của mình, bao gồm cả những động lực mới
trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho quá trình hiện đại hóa kiểu Trung
Quốc. Đối với một quốc gia muốn trở thành cường quốc tầm trung như Indonesia,
việc chú trọng xây dựng một thị trường rộng lớn, tạo điều kiện cho kiến thức, ý
tưởng và liên kết quốc tế của các đô thị hiện đại mang lại lợi ích tốt hơn cho
các nước xung quanh, thông qua việc xây dựng đường sắt cao tốc, cũng là một bước
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Nhìn
từ góc độ khách quan, việc phát triển đường sắt là kết quả của nhu cầu tăng cường
kết nối sau khi tăng trưởng kinh tế khu vực đã đạt đến một mức nhất định, nhưng
lợi ích kinh tế – xã hội của nó không dễ đo lường trong thực tế. Chúng ta thường
đặt ra một số kỳ vọng về lợi ích của đường sắt, nhưng đôi khi chúng có thể vượt
xa khỏi những dự đoán trên lý thuyết, chẳng hạn như tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào.
Sau khi tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào đi vào hoạt động, khối lượng vận chuyển
hàng hóa đã nhanh chóng vượt 10 triệu tấn, vượt xa kỳ vọng ban đầu. Điều này là
do hiệu ứng kết tụ (combined effect) của đường sắt.
Điều
này cũng nhắc nhở chúng ta phải suy xét kỹ hơn từ thực tiễn về tầm quan trọng của
việc xây dựng loại hình cơ sở hạ tầng giao thông này đối với Đông Nam Á trong kỷ
nguyên mới. Trước đây, đường sắt được xây dựng ở những khu vực tương đối kém
phát triển, chúng hoặc là một phần của thương mại Bắc-Nam, nghĩa là thương mại
đường dài để vận chuyển nguyên liệu thô với quy mô lớn đến các nước sản xuất
công nghiệp, hoặc là đồng thời phục vụ cho các mục đích địa chính trị, chẳng hạn
như Đường sắt xuyên Siberia do Nga xây dựng và Đường sắt Baghdad do Đức thúc đẩy.
Trong
điều kiện lịch sử mới, việc xây dựng đường sắt ở Đông Nam Á là động lực quan trọng
để khu vực này hội nhập vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Hiện nay, khu vực này
đang trong quá trình tham gia sâu vào chuỗi công nghiệp và chuỗi giá trị toàn cầu.
Quá trình này sẽ thay đổi quan niệm của họ về toàn cầu hóa được hình thành dưới
ảnh hưởng của thế lực thực dân phương Tây trong thời cận đại, đồng thời khiến họ
nhận thức được rằng sự kết nối có thể giữ giá trị ở lại trong khu vực bằng cách
thúc đẩy công nghiệp hóa bản địa.
Chức
năng của đường sắt ở Đông Nam Á được thực hiện thông qua việc tập hợp dân cư và
thúc đẩy trao đổi, hội nhập giữa thành thị và nông thôn. Khác với sự dịch chuyển
dân số giữa thành thị và nông thôn ở quy mô lớn do sự phát triển kinh tế đương
đại của Trung Quốc mang lại, quan niệm văn hóa của Đông Nam Á dường như không
thể tiếp nhận một phương thức sản xuất yêu cầu họ phải rời bỏ quê hương. Họ có
yêu cầu đối với khoảng cách của dự án, thường là khoảng vài chục km để họ có thể
đến đó bằng phương tiện giao thông chủ đạo là xe máy. Để biến những người tham
gia sản xuất nông nghiệp thành công nhân trong hệ thống công nghiệp hiện đại,
có thể xây dựng các khu công nghiệp dọc theo các giao lộ đường sắt để người dân
gần đó có thể tham gia sản xuất công nghiệp mà không cần rời khỏi quê hương, từ
đó thay đổi nhận thức của họ về chi phí-lợi ích trong sự chuyển đổi vai trò của
ngành công nghiệp.
Theo
nghĩa này, đường sắt có thể làm thay đổi địa lý kinh tế ban đầu, khiến người
dân địa phương sẵn lòng tập trung ở các đô thị hơn. Hiệu ứng kết tụ này đã xuất
hiện sau khi tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào được khánh thành. Đối với Lào, một
quốc gia có dân cư phân tán và tỷ lệ đô thị hóa dưới 40%, hiệu ứng kết tụ đối với
quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa là vô cùng sâu rộng (Lưu ý: Lào có dân
số 7,5 triệu người, hai năm sau khi tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào ra mắt, tuyến
đường sắt ở Lào đã vận chuyển tổng cộng 3,74 triệu lượt khách). Trường hợp thực
tế của tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào đòi hỏi chúng ta phải liên tục xem xét lại
hiểu biết về mặt lý thuyết đối với lợi ích kinh tế xã hội của đường sắt.
Hiện
nay, nhiều nước Đông Nam Á đang đẩy mạnh việc xây dựng để kết nối. Do Đông Nam
Á thiếu văn hóa chính trị từ trên xuống, việc thúc đẩy các dự án chiến lược có
quy mô lớn như vậy đòi hỏi phải xử lý đúng đắn những tranh chấp lợi ích trong
nước.
Ngay
sau khi Joko Widodo (Jokowi) trở thành tổng thống, Trung Quốc và Indonesia đã
ký kết dự án đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung. Toàn bộ quá trình xây dựng diễn
ra trong hai nhiệm kỳ của Jokowi, cuối cùng đã hoàn thành và thông xe vào một
năm trước khi ông rời ghế tổng thống. Vì những nguyên do khác nhau, tuyến đường
sắt cao tốc Kuala Lumpur-Singapore là sự hợp tác giữa Malaysia và Singapore,
cùng tuyến đường sắt cao tốc Thái Lan mà Trung Quốc và Nhật Bản lần lượt đấu thầu,
đều bị mắc kẹt hoặc bị chậm trễ trong xây dựng. Bởi vậy, tuyến đường sắt cao tốc
đầu tiên ở Đông Nam Á không được xây dựng ở những quốc gia có nền kinh tế phát
triển hơn như Malaysia hay Thái Lan, mà do Indonesia hoàn thành. Tuyến đường sắt
Bờ Đông Malaysia đã trải qua nhiều thăng trầm, đằng sau đó là những mâu thuẫn
và cuộc tranh đấu giữa hai chính quyền Mahathir Mohamad và Najib Razak. Trong
khi đó, khả năng thúc đẩy dự án đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung của Indonesia
khó có thể tách rời khỏi sự coi trọng của Jokowi đối với dự án này, cũng như sự
đàm phán thỏa đáng của ông trong nội bộ liên minh cầm quyền.
Sự
lãnh đạo của Indonesia đem đến nhiều chỉ dẫn cho bước tiếp theo trong việc phát
triển kết nối ở Đông Nam Á. Trong quá trình nghiên cứu, tôi phát hiện một số
người đã gọi phong cách lãnh đạo của Indonesia là “lãnh đạo kiểu Java”, nghĩa
là phát huy hiệu quả thông qua sự hiện diện và đàm phán thay vì ép buộc. Trong
nghiên cứu về lý thuyết quan hệ quốc tế, Đông Nam Á cũng là nơi thử nghiệm về mặt
lý thuyết cho các nghiên cứu theo chủ nghĩa kiến tạo, tức là nhấn mạnh vào quá
trình và sự tương tác thay vì định hướng kết quả, để thúc đẩy tiến độ của các vấn
đề liên quan.
4.
Giá trị của một nền văn hóa hòa nhập
Trong
bối cảnh căng thẳng địa chính trị đang gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ, việc
ASEAN kiên định với lập trường “không chọn bên” thường xuyên thu hút nhiều sự
quan tâm. Báo cáo tình hình Đông Nam Á 2024 do Viện nghiên cứu
Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak Institute) của Singapore công bố vào năm nay cho
thấy, dưới tiền đề buộc phải chọn bên, tỷ lệ người được hỏi lựa chọn Trung Quốc
đã lần đầu tiên vượt qua Mỹ với một chút lợi thế. Tuy nhiên, kết quả này cần được
giải thích trong bối cảnh người dân Đông Nam Á gần như tuyệt đối (hơn 90%) tin
rằng chọn phe không phải là cách thức chính của ASEAN trong việc ứng phó với những
xung đột tiềm tàng giữa Trung Quốc và Mỹ. Chúng ta thường phân tích điều này từ
góc độ lý thuyết quan hệ quốc tế về lựa chọn chiến lược của các nước vừa và nhỏ
trong trật tự quốc tế, nhưng lại thường bỏ qua một điều rằng, lựa chọn của
ASEAN thực chất là sự phản ánh nội sinh các truyền thống về giá trị, văn hóa và
chính trị của chính bản thân Đông Nam Á.
Truyền
thống về giá trị, chính trị và văn hóa của Đông Nam Á mang tính chất đàm phán mạnh
mẽ, điều này bắt nguồn từ tính đa nguyên của văn hóa Đông Nam Á. Trong lịch sử,
Đông Nam Á là khu vực pha trộn giữa văn minh Nho giáo, văn minh Ấn Độ và văn
minh Hồi giáo. Trước khi thuật ngữ khu vực “Đông Nam Á” được chấp nhận, người
Pháp gọi khu vực này là “Indochina”, nghĩa là khu vực nằm giữa Trung Quốc và Ấn
Độ. Kiểu hòa trộn này đã làm sản sinh một nền văn hóa đa nguyên và mang tính
hòa nhập, các quốc gia Hồi giáo như Indonesia và Malaysia cũng vận hành trong
khuôn khổ các quốc gia thế tục.
Theo
số liệu do Liên Hợp Quốc công bố, người Java và người Sunda lần lượt chiếm khoảng
40% và 15% tổng dân số Indonesia. Phần lớn nhóm dân tộc lớn nhất này đều theo đạo
Hồi, nhưng tỷ lệ của họ trong tổng dân số thì không vượt quá 60%. Ở một mức độ
nhất định, điều này đặt nền tảng cho sự tồn tại của văn hóa đa nguyên.
Singapore là một xã hội với người Hoa chiếm ưu thế, Malaysia cũng có 1/5 dân số
là người Hoa, nhưng người Hoa không thuộc năm nhóm dân tộc chính ở Đông Nam Á.
Hơn nữa, mỗi nước Đông Nam Á có đến vài chục nhóm dân tộc, nếu xét theo tỷ lệ
trong toàn bộ dân số Đông Nam Á thì tỷ lệ người Hoa không vượt quá 15%. Tỷ lệ
này có thể là cơ sở quan trọng để ASEAN luôn nhấn mạnh đến việc “mang lại sự
thoải mái của tất cả các bên”.
Chúng
ta từng nói Mỹ là một “nồi lẩu văn hóa” (melting pot), nhưng so với Đông Nam Á
thì Mỹ chỉ có thể được coi là một “cái khay nhiều ngăn” mà thôi. Trên thực tế,
nền văn hóa và xã hội độc đáo này đã làm nảy sinh “lãnh đạo kiểu Java” của
Indonesia ở cấp độ quốc gia, còn ở cấp khu vực thì làm nảy sinh các hình thức
ngoại giao không chính thức như đối thoại, tham vấn và đồng thuận, cùng với
“phương thức ASEAN” dựa trên nguyên tắc không can thiệp.
Vai
trò của nền văn hóa chính trị độc đáo ở Đông Nam Á trong phát triển kinh tế khu
vực vẫn bị đánh giá thấp. Nhà nghiên cứu Hứa Lợi Bình, đồng nghiệp của tôi và
là một chuyên gia nổi tiếng về Đông Nam Á, từng đưa ra nhận xét đáng chú ý sau:
Đặc trưng văn hóa mang tính hòa nhập của Đông Nam Á có thể là một trong những
lý do khiến quá trình hiện đại hóa của khu vực này tương đối thành công so với
châu Phi và châu Mỹ Latinh.
Một
mặt, sự hội nhập các nền văn minh thuở sơ khai cùng kinh nghiệm lịch sử về quá
trình bị thuộc địa hóa đã khiến Đông Nam Á có sự tiếp xúc sâu sắc với cả phương
Tây và Đông Á. Đây là điều kiện tiên quyết quan trọng để khu vực này trở thành
trung tâm và trạm trung chuyển của thế giới. Mặt khác, thông qua đàm phán và thỏa
hiệp, ASEAN đã thu hẹp được những khác biệt về chính trị, hội nhập thành công
và tránh được tình trạng chia cắt. Anthony Reid, một chuyên gia người Australia
về các vấn đề Đông Nam Á, từng chỉ ra rằng, ngoài “phương thức ASEAN”, việc các
nước Đông Nam Á chấp nhận tiếng Anh là ngôn ngữ làm việc của ASEAN chính là
chìa khóa thành công của khối, bởi biện pháp này giải quyết được sự cạnh tranh
của chủ nghĩa dân tộc giữa các quốc gia, đồng thời loại bỏ việc sử dụng bất kỳ
ngôn ngữ nào khác có xu hướng nghiêng về một quốc gia nào đó trong các cuộc
tranh luận bè phái.
Từ
góc độ khu vực, kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, không có cuộc chiến tranh
nào giữa các quốc gia nổ ra ở khu vực Đông Nam Á. Ngược lại, ở các khu vực khác
trên thế giới, tình trạng bất ổn và xung đột diễn ra không ngừng. Việc gìn giữ
hòa bình trong khu vực luôn là một trong những thách thức lớn nhất đối với các
chính trị gia, Đông Nam Á đã duy trì được hòa bình, điều đó cho thấy phương thức
và nguyên tắc xử lý công việc của ASEAN đã nhận được sự công nhận của các nước
trong khu vực.
So
với các khái niệm về trật tự vốn đề cao chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa phổ
quát của phương Tây, các chuẩn mực giá trị của ASEAN vẫn chưa được công nhận rộng
rãi, và điều này cũng đúng với các giá trị châu Á xuất hiện vào cuối thế kỷ trước.
Trên thực tế, ở Đông Nam Á, cả Malaysia và Singapore đều nhấn mạnh vai trò của
các giá trị châu Á, nhưng tác động của chúng đối với phương Tây dường như không
mạnh mẽ như Nhật Bản và Hàn Quốc lúc bấy giờ. Nguyên nhân có thể là do
Singapore và Malaysia không đủ lớn. Trong quá trình tiếp xúc với Đông Nam Á,
nguyên tắc quan trọng nhất đối với Trung Quốc là tôn trọng vị thế trung tâm của
ASEAN và các chuẩn mực giá trị của khu vực này. Bản thân sự tôn trọng này đã là
nguồn động lực âm thầm nuôi dưỡng mọi sự. Xét về lâu dài, nó sẽ chuyển hóa nhận
thức tích cực của Đông Nam Á về tác động kinh tế của Trung Quốc thành nhận thức
tích cực về sự tương tác chính trị và văn hóa.
-------------------
Trung
Phi Đằng là nghiên cứu viên tại Viện Chiến lược toàn cầu và châu
Á-Thái Bình Dương kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Khu vực thuộc Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment