Lợi
ích chung Việt Nam-EU và trật tự mới tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Richard Ghiasy, Julie Yu-Wen Chen và Jagannath P. Panda | ISDP
Viên
Đăng Huy, biên dịch
Nguyễn
Thế Phương, hiệu đình
Tháng
3 và tháng 4 vừa qua, các chuyến thăm gần như liên tiếp của Bộ trưởng Ngoại
giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn tới Mỹ và Trung Quốc cho thấy chính sách ngoại giao
khéo léo của Việt Nam với các cường quốc trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung
ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (ÂĐD – TBD) và những tranh chấp lãnh thổ của Việt
Nam với Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông. Một phần lớn của (tình trạng được
cho là) rối ren ở ÂĐD – TBD bắt nguồn từ Biển Đông, và một trong những thách thức
chính của Việt Nam là thiết lập trật tự trên các vùng biển biên giới.
Do
đó, Việt Nam – vốn có lịch sử ngờ vực đối các cường quốc, đã và đang đa dạng
hóa quan hệ của mình bằng cách tìm kiếm quan hệ an ninh và quốc phòng với các đối
tác ÂĐD – TBD như Liên minh Châu Âu (EU), Ấn Độ và Nhật Bản, cũng như với Nga –
một quốc gia được coi là “mối đe dọa hiện hữu” đối với khối đồng minh xuyên Đại
Tây Dương. Cùng lúc đó, Đông Nam Á đang phải vật lộn với sự chia rẽ nội bộ
trong khu vực để giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Chủ nghĩa đa phương khu vực
được hiện thân bởi Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) dường như thiếu sức
mạnh, ngay cả khi Trung Quốc đang “kiểm soát” một số thành viên của ASEAN bằng
sức mạnh tài chính và kinh tế. Rõ ràng, cần có những nỗ lực vượt ra ngoài “ngoại
giao cây tre” của Việt Nam để tăng cường tình đoàn kết quốc tế.
Tình
thế tiến thoái lưỡng nan tương tự đang diễn ra với Châu Âu. Gần đây, EU vừa coi
Trung Quốc là thách thức chiến lược nhưng vẫn tìm cách hợp tác kinh tế với nước
này. Điều này gợi nhớ đến tình trạng khó khăn của Việt Nam và nhiều nước Châu Á
khác trong tương quan với Trung Quốc. Hơn nữa, giống như ở Đông Nam Á, không phải
tất cả các nước thành viên EU đều chấp nhận cấu trúc ÂĐD – TBD do Mỹ dẫn đầu.
Ngay cả khi chấp nhận, như Pháp hay Đức, điều đó cũng không có nghĩa là chấm dứt
mối quan hệ có lợi với Trung Quốc. Tuy nhiên, rõ ràng là EU đã bắt đầu quan tâm
hơn đến tình hình địa chính trị ngày càng phức tạp ở ÂĐD – TBD, mặc dù sự chia
rẽ về mức độ ưu tiên đối với khu vực này, bao gồm cả Trung Quốc, vẫn còn hiện hữu.
Trong
bối cảnh đó, liệu EU và Việt Nam, rộng hơn là ASEAN, có thể hội tụ nhiều hơn,
thậm chí là thống nhất trong các chính sách của họ không?
Xem
xét lại sự thiếu định hướng ÂĐD – TBD của Việt Nam
ÂĐD
– TBD, vùng biển và bờ biển giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, đã trở thành
khu vực có tính chất địa chính trị quan trọng nhất thế giới. Trong khu vực này,
trọng tâm và tranh luận của các thành viên chủ động hơn của EU, chẳng hạn như
Pháp, Hà Lan và Đức, tập trung vào chủ nghĩa đơn phương của Trung Quốc, phụ thuộc
thương mại và sự cạnh tranh không kiểm soát giữa Trung Quốc và Mỹ. Một số thành
viên EU này đã bắt đầu hiểu quan điểm của nhau về ÂĐD – TBD. Dần dần, mọi người
nhận ra rằng vấn đề không chỉ nằm ở việc EU và các thành viên của khối này muốn
đạt được gì trong khu vực, mà còn phụ thuộc nhiều vào quan điểm và ưu tiên của
các quốc gia chủ chốt ở ÂĐD – TBD – và cách nhìn của họ về chiến lược và đóng
góp của Châu Âu.
Việt
Nam là một trong những quốc gia xứng đáng nhận được sự chú ý chiến lược lớn hơn
từ Châu Âu. Được biết đến với “ngoại giao cây tre” – lấy hình tượng từ
cây tre với bộ rễ vững chắc, thân cây cứng cáp và cành nhánh linh hoạt – một
chính sách cân bằng với hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc. Theo lời của Bộ trưởng
Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, chính sách đối ngoại của Việt Nam hướng tới “độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế tích cực.” Tuy nhiên, Hà Nội chưa bao giờ chính thức và
hoàn toàn chấp nhận thuật ngữ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” hay cấu trúc Ấn Độ
Dương – Thái Bình Dương do Mỹ dẫn đầu, mặc dù họ thừa nhận rằng một số khía cạnh
của nguyên tắc ÂĐD – TBD Tự do và Mở do Mỹ và các đồng minh ủng hộ phù hợp với
lợi ích quốc gia của mình. Ví dụ, trật tự ở Châu Á – Thái Bình Dương, thuật ngữ
mà Hà Nội thích sử dụng hơn, phải dựa trên luật lệ. Điều này nói lên một trong
những ưu tiên quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam: tìm kiếm
hòa bình và ổn định trong các tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc và các bên
yêu sách khác.
Tuy
nhiên, trật tự mà Việt Nam tìm kiếm không chỉ nằm trong lĩnh vực an ninh. Mục
tiêu phát triển kinh tế đã là ưu tiên hàng đầu kể từ thời Đổi Mới năm 1986.
Tăng trưởng kinh tế được coi là xương sống của an ninh quốc gia và tính chính
danh của chế độ. Có thể nói, việc phát triển quan hệ đối ngoại của Hà Nội dựa
trên kinh nghiệm phát triển đất nước, nhấn mạnh ưu tiên kinh tế dẫn đến ổn định
quốc gia và vị thế quốc tế. Việt Nam lựa chọn tham gia vào cấu trúc ÂĐD – TBD dựa
trên những ưu tiên chiến lược của mình.
Sự
hội tụ giữa Việt Nam và EU
Trên
cả lĩnh vực kinh tế và an ninh, Việt Nam và EU có thể tìm thấy những lợi ích hội
tụ, xích lại gần nhau hơn. Mặc dù Hà Nội chưa chính thức sử dụng thuật ngữ “ÂĐD
– TBD”, nhưng chiến lược ÂĐD – TBD của EU, nếu được thực hiện tốt, có thể giải
quyết cả nhu cầu kinh tế và an ninh của Việt Nam. Bất chấp những hạn chế về an
ninh và sức mạnh quân sự ở ÂĐD – TBD, EU vẫn có thể đóng một vai trò quan trọng
trong việc giải quyết hiệu quả những nhu cầu này, vốn cũng rất quan trọng đối với
lợi ích chiến lược của EU.
Hai
bên đã có Hiệp định Khung Tham gia. Việt Nam cũng tham gia dự án Tăng cường An
ninh Châu Á (ESIWA) của EU, bao gồm quản lý khủng hoảng và an ninh mạng. Điều
này cũng phù hợp với Chiến lược ÂĐD – TBD của EU, coi Việt Nam là một đối tác
“vững chắc”.
Đáng
chú ý, cả EU và Việt Nam đều đối mặt với sự cưỡng ép kinh tế từ Trung Quốc. Do
Trung Quốc hiện tại là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, các hạn chế về
mặt thương mại mang tính bất chợt ảnh hưởng tới xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc sẽ gây tổn hại đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam. Tương tự như vậy,
Hà Nội chào đón Hiệp định Thương Mại Tự Do EU-Việt Nam (EVFTA), hy vọng rằng nó
sẽ tạo ra cơ hội để đa dạng hóa đối tác thương mại và từ đó giải quyết những rủi
ro về chèn ép kinh tế từ Trung Quốc.
Mặt
khác, EU và các nước thành viên của mình vẫn đang cố gắng gia tăng sự dẻo dai của
nền kinh tế bằng cách đa dạng hóa các đối tác thương mại do họ chật vật với việc
quá phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Vì vậy, về mặt chiến lược, Brussels tạo
ra một cơ hội tuyệt vời cho Hà Nội và ngược lại. Tuy nhiên, các thách thức vẫn
còn đó. Lấy ví dụ, tất cả các nước thành viên của EU vẫn còn phải thông qua Hiệp
định Bảo hộ Đầu tư ký cùng với EVFTA. Mặc dù đây thường là một quy trình tốn thời
gian, ưu tiên thu được lợi ích nhanh chóng đã bị đình trệ do tình hình địa
chính trị đầy thách thức.
Tuy
nhiên, mối quan tâm của hai bên không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế truyền
thống; họ còn quan tâm đến phát triển bền vững và chuyển đổi xanh. Ví dụ, trong
khuôn khổ Cửa ngõ toàn cầu của EU (Global Gateway), EU và Việt Nam đã ký kết Hiệp
ước Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP), nhằm cung cấp khoản tín dụng
đa dự án trị giá 500 triệu euro. Đây được cho là trọng tâm hàng đầu của EU tại
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cách tiếp cận thận trọng của Hà Nội vì lo ngại
rơi vào bẫy nợ tiềm ẩn có thể cản trở sự hợp tác suôn sẻ giữa hai bên. Các dự
án liên quan đến nguồn vốn lớn như JETP cũng gặp thách thức thực tế trong việc
thực thi vào thời điểm hiện tại do các quan chức lo ngại trở thành mục tiêu của
các chiến dịch chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việt
Nam cũng mong muốn ASEAN và EU cùng nhau thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và tăng
cường hợp tác an ninh, đặc biệt là trong các tranh chấp Biển Đông. Nhìn chung,
các nước ASEAN coi EU là một thế lực cân bằng không mang tính đe dọa nhằm giảm
thiểu tác động của cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ. Một số lĩnh vực hợp tác
tiềm năng giữa EU và Việt Nam trong khuôn khổ ASEAN bao gồm các biện pháp ứng
phó biến đổi khí hậu ở khu vực, an ninh lương thực, chuyển đổi số và đổi mới
công nghệ. Hai bên cũng cần tận dụng quan hệ đối tác để hiện thực hóa FTA
ASEAN-EU.
EU
– Một thế lực Cân bằng An ninh?
EU
và Việt Nam cũng chia sẻ cam kết duy trì trật tự dựa trên luật lệ – một thành
phần thiết yếu của hợp tác an ninh do tầm quan trọng chiến lược của khu vực.
Tuy nhiên, việc cải thiện thông tin liên lạc và hiểu biết về các sự cố trên biển
hiệu quả hơn lại là một thách thức. Các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đang âm
ỉ, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Philippines. Năm 2016, một tòa án trọng tài
được thành lập theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đã ra
phán quyết nghiêng về Philippines, nhưng Trung Quốc bác bỏ. Tuy nhiên, phán quyết
này củng cố cho yêu sách của Việt Nam, điều mà các nước ASEAN khác ngoài
Philippines không hoan nghênh công khai.
Trong
bối cảnh thiếu thỏa thuận về Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN,
vốn đã kéo dài nhiều năm, các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở
Biển Đông, bao gồm cả hành vi mới nhất chống lại Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ, đã gia
tăng. Trước tình hình này, Việt Nam và Philippines đã ký các thỏa thuận an ninh
hàng hải. Đồng thời, Việt Nam do dự không thực hiện các hành động quyết liệt
hơn, chẳng hạn như ủng hộ Philippines trong nỗ lực soạn thảo một COC “riêng biệt”
vì lo ngại Trung Quốc trả đũa.
Mặc
dù Việt Nam ít được các phương tiện truyền thông lớn trên thế giới thảo luận
hơn Philippines về vấn đề này, Hà Nội đang tích cực sử dụng các biện pháp ngoại
giao để quốc tế hóa vấn đề, thu hút nhiều bên tham gia hơn để giải quyết các
tranh chấp lãnh thổ phức tạp nhằm bảo vệ chủ quyền và thúc đẩy hòa bình khu vực.
Trong bối cảnh đó, việc giành được sự ủng hộ của EU và các nước thành viên sẽ
có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam.
Phía
Việt Nam có thể hỗ trợ điều này bằng cách cung cấp cho các thực thể nước ngoài,
bao gồm cả EU, thông tin minh bạch và kịp thời khi các sự cố xảy ra. Hiển
nhiên, sử dụng chiến lược truyền thông như Philippines có thể gây trầm trọng
hóa vấn đề, điều này có thể khác với cách tiếp cận ưa thích của Việt Nam khi nước
này ưu tiên đu dây nhằm cân bằng giữa mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc. Tuy
nhiên, Hà Nội ít nhất có thể cung cấp cho các nhà ngoại giao nước ngoài thông
tin minh bạch và chi tiết một cách kịp thời để giúp họ xác minh và đánh giá
tình hình thực địa. Điều này sẽ giúp EU và các quốc gia tiềm năng cùng chí hướng
khác phản ứng nhanh hơn đối với các sự cố trên biển và thúc đẩy một thỏa thuận
giữa các bên liên quan (modus vivendi) trên Biển Đông được chấp nhận hơn. Cuối
cùng, một modus vivendi như vậy cũng có lợi cho Trung Quốc.
EU
không còn là người ngoài cuộc
Gần
đây, lập trường của EU về vấn đề Biển Đông là tôn trọng trật tự dựa trên luật lệ
và tự do hàng hải, phản đối mạnh mẽ các hành động đơn phương, đồng thời ủng hộ
Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) do ASEAN dẫn dắt “có hiệu lực, thực chất và ràng buộc
pháp lý” khi đề cập đến Trung Quốc nhưng không chỉ đích danh. Đây là một sự
thay đổi so với thời kỳ trước khi EU quan tâm đến ÂĐD – TBD, khi họ là một khối
trung lập và bị chia rẽ hơn. Sự phụ thuộc nặng nề của EU vào thương mại hàng hải
qua Biển Đông khiến họ không thể đứng ngoài cuộc. Tuy nhiên, các quốc gia thành
viên ASEAN có yêu sách ở Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam, có lẽ mong đợi một lập
trường rõ ràng hoặc sắc bén hơn, điều mà EU đang hướng tới.
Ví
dụ, vào tháng 3 năm 2024, EU đã ra tuyên bố bày tỏ lo ngại về các sự cố liên
quan đến “hành vi nguy hiểm lặp đi lặp lại” của Cảnh sát biển và dân quân biển
Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này nghiêng về lập trường của Mỹ, trong khi Mỹ đã
lên tiếng chỉ trích trực tiếp Trung Quốc về vấn đề Biển Đông một cách mạnh mẽ
hơn, thậm chí gọi các yêu sách của Trung Quốc là “hoàn toàn bất hợp pháp” ngay
cả trước các sự kiện hiện tại.
Mặc
dù Mỹ và các đồng minh đã lên tiếng mạnh mẽ, nhưng điều này vẫn chưa dẫn đến một
giải pháp cụ thể cho cuộc xung đột. Tuy nhiên, nếu EU không thể đưa ra những
tín hiệu rõ ràng về vấn đề này, sự chia rẽ giữa các quốc gia cùng chí hướng sẽ
bị Trung Quốc coi là yếu kém và có thể lợi dụng.
Điều
quan trọng là, điều này không chỉ đúng đối với các tranh chấp Biển Đông mà còn
đối với các hoạt động cưỡng ép của Trung Quốc nói chung. Do đó, với quan điểm
không đối đầu, hướng tới hòa nhập và lợi ích kinh tế mang tính hội tụ của cả Việt
Nam và EU đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương / ÂĐD – TBD, cả hai bên đều
sẵn sàng chấp nhận quan điểm chiến lược của nhau và nâng cao vị thế trước một
Trung Quốc đầy thách thức và những nỗ lực nhằm đảm bảo trật tự.
----------------------------
Richard
Ghiasy
là Nghiên cứu viên cao cấp, Trung tâm Leiden Châu Á, Đại học Leiden và Chuyên
gia, Hội đồng Hán học Chính phủ Hà Lan (CKN), Hà Lan.
Julie
Yu-Wen Chen
là Giáo sư về Trung Quốc học, Đại học Helsinki, Phần Lan; Giáo sư thỉnh giảng tại
Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa Châu Á, Đại học Mahidol, Thái Lan;
Jagannath
Panda là Giám đốc Trung tâm Stockholm về Các vấn đề Nam Á và ÂĐD – TBD, Viện
Chính sách An ninh và Phát triển, Thụy Điển và Giáo sư, Khoa Nghiên cứu Khu vực
và Toàn cầu, Đại học Warsaw.
Nguồn: Richard Ghiasy,
Julie Yu-Wen Chen và Jagannath P. Panda, “Convergence
in Vietnam, EU Interests a Harbinger of Indo-Pacific Order?”, ISDP,
24/05/2024
No comments:
Post a Comment