Tôn
Phi
Cập
nhật: 19/11/2014
Tập
đoàn Intel chuyên về các bộ vi xử lý ồ ạt đầu tư
và xây cất ở khu Công Nghệ Cao quận 9. Những tưởng
sinh viên ngành công nghệ thông tin của Việt Nam sẽ có
đất dụng võ. Ai dè chất lượng sinh viên Việt Nam quá
thấp, cứ 100 người Việt ứng tuyển mới có 1 người
đủ tiêu chuẩn để làm việc cho Intel, thậm chí 1 người
duy nhất đó cũng phải đưa đi nước ngoài đào tạo.
Con số này cho thấy sự tụt hậu đáng ngạc nhiên của
đất nước về lĩnh vực điện toán công nghệ thông tin
vốn được coi là dễ dàng đi tắt đón đầu. Việt Nam
chưa sản xuất được siêu vi tính, kể cả các máy chủ
cũng phải đi nhập của nước ngoài, thậm chí còn chưa
có công ty nội địa nào sản xuất được mạch vi điện
tử máy tính. Bề ngoài, thị trường phần mềm ở Việt
Nam rất sôi động chẳng khác gì Ấn Độ những năm cuối
thế kỷ 20, nhưng về phần cứng, Việt Nam đã bị tụt
hậu rất xa so với thế giới. Câu hỏi về nguyên nhân
tụt hậu về công nghệ thông tin và giải pháp khắc phục
đang sừng sững thách đố trí tuệ các nhà giáo dục
khai phóng của Việt Nam.
Chương
trình học lạc hậu và nặng tính hàn lâm
Thông
thường ở các nước phát triển cứ 3 năm là thay đổi
giáo trình vì công nghệ, khoa học phát triển như vũ bão,
trong khi đó giáo trình của ta hơn 30 năm nay vẫn không có
được những thay đổi rõ rệt.
Vào
thập niên 1990, nhiều giáo sư đã nhận định những cuộc
bùng nổ về công nghệ thông tin trên toàn thế giới và
sẽ ảnh hưởng tới Việt Nam. Yêu cầu tuyển sinh đầu
vào của ngành này là toán, vật lý và ngoại ngữ, nhưng
phải đến năm 2012, Bộ giáo dục mới cho lưu hành việc
thi tuyển đầu vào khối A1 toán, vật Lý, tiếng Anh) vào
chương trình tuyển sinh ngành công nghệ thông tin.
Khi
mà ở phương Tây, người ta trang bị cho sinh viên kiến
thức nền cơ bản rồi hướng họ vào các mũi nhọn thì
chính sách của ta vẫn theo “hướng dàn hàng ngang”,
nghĩa là sinh viên của chúng ta sẽ biết tất cả nhưng
lại không biết gì. Và nếu cứ tiếp tục “dàn hàng
ngang” về chuyên môn như thế này thì không bao giờ sinh
viên Việt có thể có được các ưu thế như sinh viên
nước ngoài, nhất là sinh viên Mỹ và Ấn Độ.
Điều
đó cho thấy tầm nhìn rất ngắn hạn của những người
làm chính sách giáo dục ở Việt Nam. Thạc sỹ Nguyễn
Mạnh Cường là một trong những thành viên chủ chốt đầu
tiên của trung tâm tin học, đại học quốc gia TP.HCM,
hiện nay trung tâm này phát triển thành trường đại học
Công nghệ thông tin. được cấp bằng đại học về công
nghệ thông tin khi chưa trở thành đại học. Hiện ông là
trưởng phòng đào tạo của đại học Hoa Sen, một đại
học đang hướng đến mục tiêu phi lợi nhuận trong vài
năm tới. Trao đổi với phóng viên, ông chỉ ra được
một thứ luật ngầm mà thượng tầng chính trị đã dựng
nên và kìm hãm học thuật. Từ khi có hệ thống tín chỉ,
Bộ giáo dục nói rằng các trường được tự chủ về
nội dung giảng dạy. Thế nhưng, không một trường nào
dám bỏ 10 tín chỉ môn chính trị. Chưa xét tính đúng
sai của một hệ tư tưởng, một nền giáo dục đã phạm
sai lầm khi ép buộc quốc dân phải tiếp thu một cách
không có phản biện một hệ tư tưởng. Trong khi đó, ở
tất cả các nước phát triển và tiến bộ, anh thích học
triết Đông hay triết Tây thì đó là quyền lựa chọn
của anh. Thứ hai, việc đặt các môn chính trị với dung
lượng nặng quá mức lên vai các sinh viên khoa học kỹ
thuật là không thể chấp nhận được. Vì ảnh hưởng
của văn hóa Trung Quốc nhiều hơn Liên Xô nên tính hàn
lâm trong chương trình giáo dục của chúng ta còn quá nặng
nề.
Trưởng
giả học làm sang
Giáo
sư Nguyễn Đăng Hưng chỉ ra căn nguyên của việc công
nghệ Việt Nam kém phát triển. Đó là tật “trưởng giả
học làm sang”. Nghiên cứu phải được kết hợp với
giảng dạy. Những người làm nghiên cứu nên tham gia
giảng dạy để bớt giờ của các thầy ở các trường.
Các thầy ở các trường chạy sô nhiều quá nên không có
thì giờ để nghiên cứu. Nên có sự kết hợp các trung
tâm nghiên cứu với các trường đại học. Trừ những
trung tâm nghiên cứu có tính chất chiến lược đối với
quốc gia, những trung tâm khác có thể sát nhập vào các
trường để các trường chủ động được, để những
kết quả nghiên cứu có chất lượng được truyền bá
cho sinh viên thông qua bài giảng, hoặc seminar. Những người
làm nghiên cứu có hiệu quả mà không phổ biến được
cho những người đi sau những thành quả đạt được thì
quả là phí phạm. Ngược lại, các giáo sư giảng dạy
không có thì giờ nghiên cứu sẽ dẫn đến chất lượng
bài giảng xuống cấp.
Nhận
thức về tính đẳng cấp quốc tế sẽ rất sai lầm khi
cho rằng chỉ cần mang giáo trình của MIT, Harvard về rồi
dùng nó để đào tạo là mang lại hiệu quả cao, có tầm
quốc tế. Thú thật tôi rất buồn khi đọc trên báo chí
đâu đó cách nhìn này. Nó quá hạn hẹp và cục bộ.
Những gì thuộc về đẳng cấp thì không thể học vẹt
được. Càng không thể lấy bài giảng của người khác
làm của mình khi mình không can qua nghiên cứu khoa học
thực thụ. Một giáo sư có đẳng cấp quốc tế thường
viết ra giáo trình sau khi bỏ ra hàng chục năm nghiên cứu
miệt mài trong ngành đó, có thời gian dài hạn để cọ
xát với mảng khoa học tiên tiến ấy. Muốn đào tạo
đẳng cấp thì phải có những người thực sự đẳng
cấp giảng dạy. Các trường ĐH có đẳng cấp quốc tế
họ tìm mọi cách để câu cho được giáo sư đẳng cấp
về dạy. Đẳng cấp của họ được đánh giá thông qua
quá trình nghiên cứu, số công trình đã công bố quốc
tế và qua ảnh hưởng khoa học của giáo sư đó. Để có
được khoa học công nghệ có đẳng cấp quốc tế, ta
phải bắt trúng người, phải tìm cho được những đầu
tàu như thế. Trung Quốc và Singapore làm rất tốt điều
này.
Nguyên
nhân tụt hậu bắt nguồn từ văn - sử – triết
Thế
giới tiếp tục chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ về
công nghệ thông tin. Trong số các ngành khoa học, ngành
khoa học này có tuổi đời ít nhất, nhưng lại có số
phát minh nhiều nhất và len lỏi vào từng ngóc ngách của
tất cả các lĩnh vực như là yết hầu. Cho dù công nghệ
thông tin là lĩnh vực dễ đi tắt đón đầu nhất, để
phát triển thành một thế mạnh vẫn cần tính toán quy
hoạch đường dài. Trong khi các nước phát triển không
ngừng về lĩnh vực này, Việt Nam lại đang cho thấy nguy
cơ không theo kịp quốc tế và bị các nước bạn dần
bỏ xa trong kỷ nguyên tin học. Thạc sỹ Nguyễn Mạnh
Cường cho rằng không chỉ công nghệ thông tin nói riêng,
mà cả xã hội Việt Nam nói chung đang trì trệ bắt nguồn
từ văn- sử- triết. Khi ba ngành khoa học định hướng
xã hội này còn bị giới chính trị độc tài thao túng
thì xã hội không thể nào tiến bộ được.
Tấm
bằng về công nghệ thông tin của Việt Nam đã không còn
giá trị. Cả xã hội đầy rẫy những chuyên viên tin
học, những người làm được “tất cả” nhưng lại
không thể làm được một cái gì đòi hỏi trình độ
cao. Ngoài ra, còn có một lượng lớn sinh viên công nghệ
thông tin sau khi tốt nghiệp mà vẫn không làm được việc
đã nộp đơn để học cao học, đây là mỏ vàng của
các trường, còn số người này sau khi nộp tiền và đi
học đủ số buổi thì có bằng thạc sỹ, lại đi dạy
những lứa sinh viên mới và do không đủ trình độ nên
họ lại tiếp tục làm hại học thuật.
Những
người làm chính sách của nhà cầm quyền cộng sản buộc
phải lên tiếng chịu trách nhiệm về lỗi quy hoạch đào
tạo của mình. Chỉ khi đó Việt Nam mới có cơ sở để
bước vào cuộc đua công nghệ sau khi gia nhập WTO.
Tôn
Phi
No comments:
Post a Comment