jeudi
20 novembre 2014
Tranh
chấp về lãnh thổ giữa hai bên VN và Kampuchia, nếu xét
trên phương diện những yêu sách khác nhau của người
Khmer hiện nay về lãnh thổ thì ta thấy các học giả
Khmer nghiêng về lịch sử. Mà nói về lịch sử thì có
thể nói là tranh chấp hai bên đã xảy ra từ rất lâu.
Dầu vậy ta có thể chia ra làm năm thời kỳ. Mỗi thời
kỳ bản chất của tranh chấp khác nhau, các lý lẽ biện
minh cho yêu sách của các bên khác nhau. Điều này xảy ra
do ảnh hưởng địa chính trị, hoàn cảnh lịch sử cũng
như tinh thần dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ từ các bên.
Thời
kỳ đầu, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến khi Nam kỳ trở
thành thuộc địa của Pháp 1862.
Thời
kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945, sau khi Đại
chiến thế giới kết thúc.
Thời
kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954, hiệp định Genève
được ký kết.
Thời
kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Thời
kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Giữa
hai bên có ba loại tranh chấp. 1/ về lãnh thổ trên đất
liền, có hai khuynh hướng tranh chấp, thứ nhứt là đất
khu vực dọc theo biên giới, thứ hai, tranh chấp vùng đất
mà người Kampuchia gọi là Khmer Krom 2/ về chủ quyền
các đảo, quan trọng nhất là đảo Phú Quốc và 3/ tranh
chấp về ranh giới hải phận, về hiệu lực các đảo
trong vịnh Thái Lan.
Muốn
biết nội tình các tranh chấp này ra sao, lý lẽ mà các
học giả Kampuchia vịn vào để đòi đất đai, lãnh thổ
là như thế nào, cũng như các lý lẽ này có hợp lý hay
không ? điều cần thiết là ta cần phải hiểu ngọn
nguồn, tức là vừa theo lịch sử của tranh chấp, vừa
theo tinh thần của luật pháp quốc tế.
1/
Thời kỳ thứ nhất, thuần túy lịch sử. Cũng cần nói
sơ qua vì các yêu sách của phía Khmer hiện nay nghiêng về
lịch sử.
Bắt
đầu sau khi VN bình định xong Chiêm Thành khoảng đầu
thế kỷ 17. Lãnh thổ VN được mở ra về phía nam cho
đến Bình Thuận. Từ đó hai dân tộc VN và Khmer trực
tiếp đối đầu với nhau. Vào thời điểm này thì đế
quốc Khmer đã suy tàn.
Đế
quốc Khmer là một đế quốc hùng mạnh, cao điểm là
thế kỷ thứ 11. Theo ý kiến các học giả phương Tây
thì lãnh thổ đế quốc này trải dài từ bắc Thái Lan,
một phần Miến Điện, bao gồm thêm nam Lào cho đến
miền Nam VN hiện nay. Đế quốc này suy tàn bắt đầu từ
thế kỷ 14. Các đế quốc Xiêm lần lượt mang tên
Sukhôthaï, Ayuthia và Bangkok, đã chinh phục hầu như 80%
lãnh thổ đế quốc Khmer. Đế quốc Khmer hùng mạnh ngày
xưa đã bị đế quốc Thái tiêu diệt gần hết. Dân
chúng Khmer sót lại đã chạy đi tản mát, một số trở
thành các bộ lạc nhỏ trong rừng sâu, núi thẳm, số
còn lại lui về lập đô ở Nam Vang. 2/3 diện tích nước
Thái Lan hiện nay vốn ngày xưa thuộc về đế quốc
Khmer. Các di tích lịch sử, đền đài của Khmer như
Angkor Thom và Angkor Vat, hoàn toàn xóa bỏ trong ký ức của
dân Khmer, bị bỏ hoang phế. Chỉ đến giữa thế kỷ
thứ 19 thì các phế tích này mới được mọi người
biết đến.
Công
cuộc nam tiến của VN, cũng như sự bành trướng của đế
quốc Thái gặp nhau. Vô hình chung đế quốc Khmer ở Nam
Vang trở thành một quốc gia « trái độn » ở
giữa hai thế lực mạnh mẽ là Thái và Việt. Việc dằn
co hai bên Thái-Việt về Khmer kéo dài khoảng 1 thế kỷ.
Trong
khoảng thời gian dằn co này, ta có thể nói rằng VN đã
xây dựng và củng cố xong địa bàn của mình ở miền
Nam hiện nay. Các tỉnh Biên Hòa, Mỹ Tho được xây dựng
dưới thời các chúa Nguyễn, nhờ công lao các cựu trung
thần nhà Minh, như Dương Ngạn Địch và Trần Thượng
Xuyên. Khu vực Hà Tiên và vùng chung quanh như Châu Đốc,
Rạch Giá, Phú Quốc… cũng được xây dựng nhờ công
lao của một người Hoa khác, thần phục VN, tên là Mạc
Cửu.
Năm
1834 dưới triều Minh Mạng, VN đã áp đặt được
quyền lực của mình lên đế quốc Khmer. Nam Vang được
gọi là « Trấn Tây Thành », lãnh thổ nước
này được phân chia ra thành 32 tỉnh, huyện. Đến năm
1841, được sự trợ giúp của quân Xiêm, dân Khmer ở
Nam Vang nổi loạn, quân VN phải rút đi. Nhưng đến năm
1845 phía Khmer lại cầu cứu VN, vì so ra ách cai trị của
quân Xiêm còn bạo tàn nhiều hơn VN. Cuối cùng đế quốc
Khmer phải chịu thần phục cùng lúc hai nước VN và Thái
Lan. Việc này kéo dài cho đến khi đế quốc Pháp vào
VN.
Trong
khoảng thời gian này thì không có vấn đề gọi là
« tranh chấp về biên giới hay lãnh thổ » giữa
hai bên Việt và Miên, mà chỉ có hiện tượng gọi là
cá lớn nuốt cá bé, xảy ra thường trực ở mọi nơi
trên thế giới. Tức là, một dân tộc muốn tồn tại
là phải mạnh và không thể để hiện hữu các thế lực
đe dọa chung quanh. Ta thấy, ở Châu Á, trường hợp đế
quốc Trung Hoa với các dân tộc chung quanh, hay tại Châu
Âu, Trung Á, các nước Ả Rập... các đế quốc chinh
phục lẫn nhau để mở rộng bờ cõi. Mạnh được yếu
thua. Ta thấy biết bao nhiêu đế quốc mạnh mẽ như
Roma, Ottoman, các đế quốc thuộc văn minh Nhị Hà (tức
là Mésopotamia) thuộc Irak, Iran hiện nay... có lúc cực
thịnh, nhưng rồi đều suy tàn. Cá lớn nuốt cá bé. Các
việc chinh phục xảy ra thường trực mà không hề dựa
trên một phép tắc hay theo một đạo lý nào. Đế quốc
Khmer, đến thế kỷ 14 mạnh mẽ biết bao nhiêu. Sau đó
thì suy tàn, đến đỗi con cháu họ không biết đến nền
văn minh rực rỡ Angkor Vat, Angkor Thom của tổ tiên họ
ra sao. Các học giả Tây phương cùng đồng ý rằng, nếu
Pháp không kịp thời có mặt tại Đông dương, đế quốc
Khmer chắc chắn sẽ bị mất về hai đế quốc Thái lan
và VN.
Các
học giả Khmer hiện nay lên án rằng VN chiếm đất của
tổ tiên họ. Điều này trên quan điểm lịch sử và
luật lệ quốc tế thì không thuyết phục. Cũng như VN
hiện nay khó mà nại lý do Trung Hoa chiếm đất của tổ
tiên mình ở Quảng Đông, Quảng Tây. Cũng như dân Ý bây
giờ đâu thể nào đòi lại lãnh thổ trước kia thuộc
đế quốc Roma, hay nước Thổ đòi tái dựng lại đế
quốc Ottoman. Nếu ai cũng nại lý do như vậy thì thế
giới sẽ đảo lộn, biển Địa Trung Hải sẽ trở thành
« nội hải » của nước Ý. Nếu chỉ nói trong
khu vực, tại Trung Quốc, các tỉnh Mãn Châu, Vân Nam, Tây
Tạng, Quảng Đông v.v... trước kia là các quốc gia độc
lập. Ai cũng lên tiếng đòi đất, đòi độc lập thì
lãnh thổ của Trung quốc sẽ không còn.
Mặt
khác, dân Khmer, ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, không có
quan niệm quốc gia với đường ranh giới rạch ròi, như
là quan niệm của văn minh Trung Hoa. Chính người Khmer,
khi lục lại lịch sử của họ cũng không tìm thấy một
tấm bản đồ nào cho mọi người biết là lãnh thổ của
họ đã mở từ đâu đến đâu. Không biết lãnh thổ
mình có từ đâu đến đâu thì đòi lại cái gì ?
và ở chỗ nào ?
Quan
niệm về quốc gia của dân tộc Khmer chỉ mới có sau
khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Và chỉ sau khi
tiếp xúc với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp,
lãnh thổ Khmer mới lần hồi thành hình qua các đợt
phân giới và cắm mốc sau này.
Những
yêu sách về lãnh thổ của các học giả Khmer khi nại
lịch sử là điều không phù hợp công pháp quốc tế,
không ai chia sẻ. Kể cả những học giả quốc tế có
cảm tình nhất với dân tộc này.
2/
Thời kỳ thứ hai, từ năm 1862 đến năm 1945 :
Sau
khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước giao các tỉnh
miền Nam cho Pháp năm 1862, thì năm 1856 vua Norodom (Nặc
Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của
Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định,
vương quốc Khmer, lúc đó gọi là Cambodge, được đặt
dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện
cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và
đối nội.
Nhưng
nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh
thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới
đâu.
Người
lãnh đạo Pháp ở địa phương lúc đó là đô đốc De
La Grandière, ông này quyết định phân định biên giới
nhằm xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của
Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cộng với sự
thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực,
ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.
Biên
giới giữa Cambodge với Thái Lan được phân định hấp
tấp, Pháp đại diện Khmer ký kết hiệp ước đầu tiên
với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, Xiêm từ bỏ quyền
« thuợng quốc » của Xiêm đối với Khmer,
nhưng Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer ở hữu
ngạn sông Cửu Long, tức ½ lãnh thổ Kampuchia hiện nay,
gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.
Điều
này trái ngược trên thực tế, vì trước khi Pháp vào
Cambodge, vương quốc này phải chịu thần phục cả hai
bên VN và Thái Lan. Lập trường ở Paris, là khi ký hiệp
ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có
thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc
ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với vua
Norodom chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính
bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có hiệp ước
này thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu quyền thuợng quốc,
tức quyền bảo hộ, của Pháp. Điều này hoàn toàn phù
hợp với « luật lệ quốc tế » trong thời kỳ.
Sự
sai lầm về biên giới Thái-Miên được sửa chữa lại
vào năm 1893. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước
kia được khôi phục lại.
Biên
giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ :
năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự
hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc,
nhưng sau khi phân định xong thì họ lại phản đối. Họ
đòi lại vùng gọi là « mỏ vịt », và người
Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này
cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.
Các
tài liệu của Pháp về phân định biên giới cho thấy,
vừa sau khi cắm mốc xong, phía Cambodge phản đối, các
cột mốc vừa cắm liền bị nhổ đi và dời về phía
VN.
Năm
1887 khối Đông dương được thành lập, Cambodge trở
thành một thành phần của khối này, cùng với
Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ).
Lào chỉ được thành lập sau này, do yêu cầu của ông
August Pavie, vào năm 1893.
Đường
biên giới giữa Cochichine (miền nam) và Cambodge trở thành
đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông dương,
thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.
Vùng
Darlac thì được sáp nhập và VN năm 1895. Điều này xảy
ra do việc trao đổi đất đai : VN nhượng đất Trấn
Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam
nước này cho Cambodge. Nhưng sau đó, năm 1899 vùng này lại
trả về Lào, đến năm 1904 mới chính thức trở lại
VN. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng
thời với vùng đất đỏ phía nam là Buôn Mê Thuộc.
Về
lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do
nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường
thẳng 140°, thẳng góc so với bờ biển, theo đó các đảo
phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía
nam thuộc VN, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.
Đến
năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer
được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới
thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không
phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với
quốc gia.
Các
học giả Kampuchia hiện nay, một số theo chủ nghĩa
« irrédentisme », tức chủ nghĩa đòi lại đất,
cho rằng Pháp đã thiên vị VN lúc phân định biên giới,
do đó có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới
này. Chủ quyền đảo Phú Quốc và các đảo chung quanh
cũng bị đặt lại. Điều này không phù hợp với các
luật lệ cũng như tập quán quốc tế.
Theo
nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc
tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi
lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc
địa, lãnh thổ đó do bên này quản lý, thì sau khi dành
được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên
này quản lý.
Vì
vậy, hầu hết lập luận của các học giả Kampuchia
hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của VN, như đảo
Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng
đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái
ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.
Thử
tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy,
thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì
đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải
của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ,
các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại. Nên biết
là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế
quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy
là đường biên giới ở đây thường đi theo đường
thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì
hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu
quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân
tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt
ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy
rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp
lý cho đến hôm nay.
Vì
thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại
tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh
là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp
điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người
Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản
đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định
đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của
Sihanouk về biên giới thay đổi như chong chóng, hết dựa
phía này đến dựa phía bên kia.
Năm
1945 khi Nhật đến thì lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy
thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng
Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có
khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội
nghị Genève 1954, ông này nghĩ rằng sẽ được TQ giúp
đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất
phi lý. Trong thời chiến tranh VN, Sihanouk lại thiên về
phía CSVN, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ
trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả
Sihanouk, cũng lại chống VN vì họ cho rằng lãnh đạo
CSVN không giữ lời hứa trả lại đất, vì thế cuộc
chiến 1978 bùng nổ. Từ đó cho đến nay, vấn đề biên
giới, lãnh thổ, hải phận… giữa VN và Kampuchia, lúc
nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ
ngoại giao giữa VN và TQ. Những lúc sau này, tranh chấp
giữa VN và TQ căng thẳng vì việc TQ đặt giàn khoan 981
trong thềm lục địa của VN, ta thấy các sư sãi, các
chính trị gia Kampuchia lại dấy lên các cuộc biểu tình,
đòi lại đất. Những điều này ta sẽ trở lại nói rõ
hơn ở phần sau.
3/
Thời kỳ thứ ba, từ 1945 cho đến năm 1954 :
Trước
khi nói về các diễn tiến liên quan đến biên giới giữa
hai bên Việt-Miên trong thời kỳ này, cũng nên nói lại
một số chi tiết liên quan đến đất đai, lãnh thổ sau
khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng ba năm 1945.
Sihanouk
đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng 6 năm 1945
Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật
trả lại Nam Kỳ cho Cambodge, thay vì trả cho triều đinh
Huế. Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có qui chế là thuộc địa
của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp
hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion. Quan chức Nhật
chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước
Đồng minh.
Pháp
vào lại VN, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến
VN, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập
nước VNDCCH ngày 2-9-1945 ở miền Bắc. Do những khó khăn
này, cùng với thế lực kiệt quệ do đất nước bị
tàn phá do Thế chiến II, Chính phủ Pháp quyết định tổ
chức các nước Đông dương để trở thành Khối liên
hiệp Pháp. Ông Bảo Đại được Pháp đề nghị trả
lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước
kia. Điều kiện Bảo Đại là phải trả Nam Kỳ và nước
VN là một nước thống nhất ba miền bắc, trung, nam.
Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập
lại trong Hiệp định Genève 1954. Quốc gia VN được
thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế
công pháp. VN cùng với Lào và Combodge, trở thành những
« quốc gia liên kết » trong khối Liên hiệp
Pháp.
Phái
đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày
2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp
trả lại Nam Kỳ cho Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn
Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm
1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của
Nam Kỳ, là vì vương quốc này nhường đất này cho Pháp
sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này
nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không
thể trả cho triều đình Huế.
Lý
lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì
lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho
Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định
1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo
lưu nào về lãnh thổ.
Quốc
hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về
lãnh thổ của Cambodge thì được một số dân biểu cách
tả của quốc hội Pháp ủng hộ.
Thấy
đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 2-5-1949 Quốc hội
Cambodge cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp
phân định lại biên giới. Những người này cho rằng
biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được phân
định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính
cách thiên vị, gây thiệt hại cho Cambodge. Kiến nghị
này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.
Do
căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình,
Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một
thế lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối
đầu với Pháp trong vấn đề VN. Ông này nghĩ rằng TQ
sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt
trận phía tây. Vì thế trong hội nghị Genève 1954,
Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về
lãnh thổ của Cambodge. Sihanouk đề nghị 6 giải pháp,
hết sức là cường điệu, có nội dung dẫn lại sơ
lược như sau :
Sihanouk
đòi, hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía hữu
ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo
Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và
sông Tiến Giang đồng thời tàu bè Cambodge có quyền
quá cảnh ở Sài Gòn.
Hoặc
là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu
ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc,
Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc
và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn
đồng thời dân Khmer phai được bảo vệ.
Hoặc
phải « quốc tế hóa Nam Kỳ », kinh Vĩnh Tế và
hải cảng Sài Gòn có qui chế tự do, bãi miễn thuế
quan. Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc
dưới sự quản trị của LHQ.
Các
đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Sự
bẽ bàng của Sihanouk càng lên cao trong hội nghị Genève
tháng 8 năm 1954 giữa Pháp và các nước Đông dương. Yêu
sách của Sihanouk dĩ nhiên không được ngó ngàng đến.
Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được
quyền thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như
được quyền sử dụng thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các
điều này bị VN bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật
lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có chính đáng được
hưởng các quyền này hay không ? Cuối cùng thì các
quyền này của Cambodge bị VN bác bỏ dưới thời ông
Diệm.
4/
Thời kỳ thứ tư, từ 1954 đến 1975.
Sau
thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng
ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực
chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình
Diệm.
Một
số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm
được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên.
Vì vậy để tảo thanh, quân VNCH buộc phải đi vào đất
của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955.
Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo
VN, trong khi trên thực địa thì cho người dời cột mốc
phân giới sang phía VN. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố
hủy bỏ mọi « quyền lịch sử » của Cambodge
trên lãnh thổ VN.
Đến
năm 1960 thì lực lượng MTGPMN được thành lập. Tổ
chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ
Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám thị của
Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH « nhìn
nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge »,
trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của CSVN,
thì hứa hẹn, nếu thắng được VNCH thì sẽ trả lại
đảo Phú Quốc cho Cambodge.
Vì
các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn
HCM được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường
huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân
MTGPMN cũng như quân chính qui miền Bắc sau này.
Quan
hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào
tháng 8 năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao
với VNCH.
Sau
khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên
VNCH và Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ
hai hơn. Nguyên nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào
VN, các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên đất
Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn HCM… các việc này
gây ra những thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân
Kampuchia. Tháng 7 năm 1965, Sihanouk kiện VNCH lên LHQ về
việc xâm phạm lãnh thổ. LHQ có điều tra nhưng chỉ kết
luận rằng VNCH có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về,
vì lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng đối
kháng, chứ VNCH không có xâm chiếm lãnh thổ của
Cambodge.
Không
hài lòng kết quả điều tra của LHQ, Sihanouk lên tiếng
kêu gọi quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận « đường
biên giới hiện trạng » của nước này. Một số
nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Điều này có thể
hiểu vì Pháp vẫn còn cay đắng Mỹ trong việc dành chỗ
của Pháp tại Đông Dương, không giúp Pháp trong trận
Điện Biên Phủ. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge « trung
lập ». Nhưng việc này không thuyết phục được ai
vì tên đất Kampuchia vẫn còn nguyên các sào huyệt của
MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế gọi là đường
mòn HCM.
Cuối
cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.
Sau
khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực
lượng của CSVN rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một
người Cambodge nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt. Trong
lúc cuộc đảo chánh, các cuộc thảm sát thường dân VN
đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long.
Một số lớn người Việt phải hồi hương. Việc này
càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội
miền Nam.
Lực
lượng Khmer đỏ được thành lập dưới sự yễm trợ
và huấn luyện của CSVN. Trên thực tế, vùng phía bắc
lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn do quân đội CSVN kiểm soát.
Nhưng trong nội bộ của Khmer đỏ lại có nhánh có tinh
thần bài Việt cực kỳ. Vì thế họ ly khai. Những nhóm
này cũng giết chóc và khủng bố đồng thời trục xuất
người Việt, như những lãnh đạo khác của Kampuchia.
Tóm
lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều
dân VN sống trên đất Kampuchia, trở thành con tin bị các
phía Kampuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời
chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được,
nhưng dân chúng VN là nạn nhân trực tiếp của các tranh
chấp này. Con số nạn nhân VN bị giết phải nói là rất
lớn.
5/
Thời kỳ thứ năm từ 1975 đến hôm nay.
Từ
năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông
dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ
địa chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có
các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường
Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên
giới, Cambodge không chỉ có tranh chấp với VN mà còn có
tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah
Viheart cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại
độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên
giới giữa các bên không chính thức đặt ra, mặc dầu
nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là
đối với hai nước Việt-Miên.
Sau
khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc
chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1975, một phái đoàn của
Khmer đỏ gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam
kết của CSVN : « nhìn nhận đường biên
giới hiện trạng của Cambodge » trong thập niên 60
về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia. Những người này,
theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo
đảm sự « toàn vẹn lãnh thổ » của hai nước.
Nhưng nhóm Khmer đỏ thân TQ trong phái đoàn bất đồng ý
kiến với nhóm thân Hà Nội. Phe thân Bắc Kinh lên tiếng
đòi VN trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là « Khmer
Krom ». Điều nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975
của CS miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức
tối. Chủ trương của TQ từ xưa nay là chống lại VN
thống nhất, cũng như chống lại việc VN quá thân thiện
hay lệ thuộc vào Liên Xô. Phía bắc, áp lực của Liên
Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên
giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài
Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có
mặt tại Cam Ranh. Nếu Kampuchia hòa hoãn hay thân thiện
với VN thì TQ sẽ không có cách gì để phá vỡ thế cô
lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa,
các nước chung quanh như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp
đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc Kinh,
cũng như Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên VN
và Kampuchia vào thế đối đầu.
Vì
thế, cả hai đại cường, Mỹ và TQ, một tư bản, một
cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành
trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot
chống lại VN. Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh
chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh
hưởng địa chiến lược trong khu vực của các đại
cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời
gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.
Để
kích thích VN vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer đỏ
còn ở Hà Nội thì quân Khmer đỏ đã đánh chiếm cù
lao Poulo Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân
Khmer đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường
lệ, những người dân VN sinh sống ở Kampuchia lại trở
thành nạn nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục
xuất về VN. Con số bị giết không biết là bao nhiêu,
nhưng chắc chắn không nhỏ. Tháng 6 năm 1976, VN gởi sứ
giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía
Khmer đỏ đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi
đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư
Đông dương ấn hành năm 1954, trong khi phía VN thì nhìn
nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên
giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai
bên cũng không đồng thuận về biên giới trên biển.
Phía
Khmer đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn
này đã tiến sang VN đánh phá và tàn sát dân chúng ở
25 huyện và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời
chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang
Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự
phản ứng của quân VN, do thiện chiến hơn, đã làm cho
quân Khmer thiệt hại nặng. Và cũng để trả đũa những
vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc
biên giới, tháng 12 năm 1977, VN mở một cuộc hành quân
thần tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer đỏ thiệt
hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt
quan hệ ngoại giao với VN.
Chiến
tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học
giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến « ủy
nhiệm ». Pol Pot đánh VN là đánh cho Trung quốc. Còn
VN đánh là đánh cho Liên Xô.
Tháng
12 năm 1978, quân VN tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot
và thành lập chính phủ thân VN ở đây. Cùng với chính
phủ này, VN đã ký kết các hiệp định « các
nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới ».
Trên đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.
Trả
lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng VN
tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản
đồ Đông dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo
trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng VN đã
chiếm vùng « mỏ vịt », tức là tỉnh Svay
Rieng.
Về
biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo
được thì hai bên cùng đồng ý "lấy
đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân
chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận
về « vùng nước lịch sử » trong khu vực đảo
Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian thích
hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa
hai nước".
Đảo
Wai được VN trả lại cho Kampuchia.
Tháng
12 năm 1985 hai bên ký lại « Hiệp ước hoạch định
biên giới ». Ngày 10-10-2005 ký thêm « Hiệp ước
bổ sung » về biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc
từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt,
vẫn thuộc lãnh thổ của Kampuchia. Tức là lời tố cáo
của Sihanouk là không đúng.
Điều
nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính
quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng.
Nhưng liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe
dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi
Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là
một thuợng khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết
được giá trị ở con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể
làm bất cứ điều gì để chống lại VN. Cũng vì lý do
này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông
bị nhà nước Khmer đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có
họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là nhà
nước này do TQ dựng lên, lúc đó ông là một thành phần
của nhà nước này.
Tuy
vậy, hiện nay TQ vẫn là một đồng minh được ưa
chuộng tại Kampuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị
bao nhiêu thì người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn
thể huyết mạch kinh tế TQ hiện nay là do 10 giòng họ
người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa – Khmer hứa hẹn
sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo hàn gắn hai bên là
tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các
bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân
chúng để chống đối VN.
6/
Yếu tố Trung Quốc.
Như
đã nói ở trên, sau 1975, lãnh thổ chỉ là cái cớ để
TQ kích động khiến Khmer đỏ gây hấn VN. Thì bây
giờ cũng vậy, vấn đề lãnh thổ cũng là cái cớ để
TQ khích động tinh thần bài Việt trong dân chúng
Kampuchia trong thời gian gần đây.
Vấn
đề là biên giới trên đất liền đã được hai bên ký
hiệp định và các mốc giới vừa được cắm xong. Hai
bên đều thỏa mãn với yêu sách của mình, vì việc
phân giới được thực hiện trên tinh thần bình đẳng,
không ai ép ai. Do đó sử dụng lãnh thổ vùng biên giới
để kích động đã không còn hữu hiệu. Những người
Kampuchia hiện nay lên tiếng chống VN thuộc phe Sam Rainsy,
một người theo dân tộc chủ nghĩa, rất thân TQ. Lá cờ
đầu để những người này trương lên chống VN trước
kia là các cột mốc biên giới, nay đổi lại là vùng
Khmer Krom và những người dân bản địa sống ở đó.
Nhưng
việc khích động người dân như thế không dễ dàng,
nếu không có một cái cớ chính đáng nào đó. Điều
này lại do nhà cầm quyền CSVN tạo ra. Đó là chính sách
hà khắc của nhà cầm quyền này lên những người dân
của họ. Điều này không làm ai ngạc nhiên, vì chính
đồng bào ruột thịt của họ là dân miền Nam cũng bị
phân biệt đối xử. Những người dân bản địa (mà
nhiều người hiện nay gọi là người Việt gốc Miên)
bị truất hữu ruộng đất, và đây là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân khiến người dân ở đây chống nhà cầm
quyền VN.
Nếu
ta xét lại những đòi hỏi của những người tổ chức
biểu tình chống VN ở Nam Vang thì ta thấy nó không rõ
ràng, đôi khi mâu thuẩn. Những yêu sách của họ như
buộc VN phải « nhìn nhận sự thật lịch sử »,
hay nhìn nhận « VN chiếm đất của Kampuchia »
đều có vẻ không thực tế.
Vấn
đề là họ đã lầm lẫn giữa quyền sở hữu đất đai
của những người dân bản địa bị nhà nước CSVN
truất bỏ, với chủ quyền về lãnh thổ.
VN
có chủ quyền về lãnh thổ ở các khu vực mà dân Khmer
gọi là Khmer Krom, điều này đã được củng cố bởi
thời gian hàng nhiều thế kỷ qua, cũng như được bảo
đảm bởi luật lệ quốc tế. Ý nghĩa của từ chủ
quyền ở đây là « quyền lực chủ tể » trên
vùng lãnh thổ đó chứ không phải là « quyền làm
chủ », hay quyền sở hữu vùng lãnh thổ đó như
nhiều người đã hiểu lầm. Quyền lực chủ tể có thể
ban phát quyền sở hữu về đất đai, nhưng cũng có thể
truất hữu, hay bãi bỏ quyền đó. Vấn đề là nhà nước
CSVN lạm dụng « quyền chủ tể » này, truất
hữu hàng loạt ruộng đồng, nhà cửa, không chỉ của
dân bản địa, mà của nhân dân trên khắp ba miền đất
nước, gây sự bất mãn cùng cực nơi mọi tầng lớp
người dân. Cán bộ CS lạm dụng quyền chức, lấy đất
của người thấp cổ bé miệng giao cho những thế lực
tài phiệt nhằm trục lợi. Các điều này tạo ra những
bất công, làm cho sự thù hận của người dân ngun ngút
đến trời cao.
Vì
vậy, do nhập nhằng về khái niệm, những người dân
bản địa phẫn uất đã bỏ VN sang sinh sống ở
Kampuchia. Tại đây họ được các thế lực bài Việt
kích động, trở lại chống VN. Điều cần nhấn mạnh :
họ là người VN, sinh đẻ tại VN, tổ tiên của họ đã
ở trên vùng đất đó từ lâu đời. Điều ngạc nhiên
là đến bây giờ những người này vẫn bị xem là
« người Việt gốc Miên ». Tức là chính sách
phân biệt giai cấp của CSVN đã đổi màu để biến
thành chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Trên
đất Kampuchia, mặc dầu họ có chung nguồn gốc xa xôi,
nhưng họ vẫn là người VN. Để tạo sự tin tưởng nơi
người Kampuchia chính gốc, những người dân Việt ly
hương này chống VN còn cực đoan hơn những người dân
Kampuchia chính gốc. Đây là một hiện tượng tâm lý, dễ
bị người khác lợi dụng.
Điều
đáng lo ngại là TQ có thể sử dụng lớp người bất
mãn này, nuôi dưỡng họ, huấn luyện họ. Trong khi kinh
tế Kampuchia lại có khuynh hướng phát triển hơn VN. Việc
này càng tạo cho Kampuchia một sức hút khiến người
Việt đổ xô về đây tìm cách sinh sống. Tất cả các
yếu tố này đều nguy hiểm cho VN. Ta không thể bỏ qua
viễn tượng, một ngày nào đó, chính những người Việt
này được TQ vũ trang để trở về chống lại VN.
Lúc
đó, một VN yếu, kinh tế kém phát triển, kéo theo sự
yếu kém về quân sự, có thể dễ dàng bị lệ thuộc
vào nước ngoài.
7/
Giải pháp nào ?
Như
đã nói, vấn đề bài Việt ở những người dân bản
địa VN, vấn đề đòi lại đất, là do từ chính sách
hà khắc của nhà nước CSVN. Chủ trương « sở hữu
tập thể về đất đai » thực ra là để tạo một
nguồn kinh tài cho đảng CSVN. Ở VN hiện hữu cái gọi
là « quĩ đất ». Lãnh đạo có thể sử dụng
đất từ các « quĩ » này như là một nguồn
tài chánh, tương tự như các mỏ dầu khí, đưa vào ngân
sách quốc gia để chi phí điều hành. Việc lạm dụng
đã tạo ra tại VN một tầng lớp dân oan, những người
trắng tay vì đất đai bị truất hữu. Việc truất hữu
phần nhiều không minh bạch, vì mục đích của nó không
nhằm phục vụ cho quyền lợi của số đông mà chỉ cho
một vài cá nhân, tài phiệt. Những người dân oan này
phần nhiều là những người dân tộc thiểu số vùng
tây bắc, trên tây nguyên, hay ở miền Nam.
Trong
khi việc tạo « quĩ đất » không hề thúc đẩy
kinh tế phát triển. Ngược lại, tệ nạn đầu cơ về
nhà đất đã tạo ra những bong bóng tài chính đe dọa
sự hiện hữu cũng như các hoạt động chủ yếu của
ngân hàng. Nền kinh tế VN có nguy cơ sụp đổ.
Khi
đã biết được nguyên nhân thì biện pháp chế ngự hệ
quả không phải là việc khó khăn. Đối với những
người dân bản địa ở miền Nam, để họ không bỏ
nước sang Kampuchia lập tổ chức chống đối, điều nhà
nước cần phải làm là cho những người đó thấy là
sống ở VN sung sướng, thoải mái hơn là sống ở
Kampuchia. Việc này không chỉ áp dụng cho những người
dân bản địa, mà cho chung mọi người dân VN. Tức là
kinh tế VN phải phát triển hơn Kampuchia. Chế độ VN
nhân bản, tình người hơn chế độ Kampuchia. Tức là,
chỉ còn cách duy nhất là thay đổi thế chế chính trị :
dân chủ hóa chế độ. Chỉ dưới một chế độ dân
chủ VN mới có thể phát triền lành mạnh.
Tiếp
theo là trả lại cho người dân những gì đã là của
họ. Những gì của tổ tiên họ đã tạo ra, đã là của
họ, thì phải trả lại cho họ. Trả ở đây là trả
quyền sở hữu đất đai chứ không phải từ bỏ « chủ
quyền lãnh thổ ». Kế đến là xây dựng một chính
sách « hòa giải dân tộc ». Làm thế nào cho
mọi người dân thấy rằng họ được tôn trọng. Tôn
trọng về nhân vị là tôn trọng văn hóa, tôn giáo, lịch
sử, lề lối sinh hoạt… của người dân đó.
Sẽ
không có biện pháp nào khác. Mọi đàn áp, trừng trị
tù tội hôm nay sẽ không dẹp được ngọn lửa căm hờn,
mà chỉ làm cho áp lực ngày càng tăng thêm. Một khi nhà
nước yếu đi, vì lý do kinh tế thí dụ vậy, thì ngọn
lửa này sẽ bùng cháy mãnh liệt. Nếu được sự tiếp
tay của ngoại bang, thì VN sẽ không có cách nào trấn áp
được. Lãnh thổ bị phân liệt là điều sẽ đến.
Publié
par Nhan Tuan
Truong à 08:27
.
.
.
No comments:
Post a Comment